Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN – TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 18/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 11/2020/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy N; Sinh ngày: 14/9/1990 tại: huyện Đ - Phú Thọ Nơi cư trú: Thôn P, xã C, Thị xã S, TP Hà Nội Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Nguyễn Văn V; SN: 1959 và bà: Nguyễn Thị P; SN: 1965 Chồng: Phạm Văn T, sinh năm 1996; Con: Chưa Tiền án; tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/11/2019 đến nay có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị: Hà Ngọc A, sinh năm 1992 – Có mặt.

Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hòa Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 15 phút, ngày 02/11/2019 Nguyễn Thị Thúy N đang ở chỗ làm quán cà phê của bà Lại Tuyết M, sinh năm 1962 tại thôn C, xã H, huyện L, N sử dụng điện thoại gọi cho người đàn ông tên là T nhà ở khu vực thôn C, xã H (N không nhớ số điện thoại, không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của T, N có lưu số điện thoại T là O) để hỏi mua 300.000 đồng ma túy, T đồng ý.

Sau đó N mượn xe máy điện màu đen của chị Hà Ngọc A là con gái của bà M để đi mua ma túy, khi đến cổng nhà T thấy không có ai N lấy điện thoại gọi cho T bảo đang ở cổng, một lúc sau người đàn ông đi ra cổng gặp N và đưa cho N một gói ma túy màu trắng có viền xanh, N cầm gói ma túy và trả cho người này 300.000 đồng, sau khi mua được ma túy N cất vào túi quần phía trước bên trái và đi về, trên đường về bị Công an huyện Lương Sơn bắt giữ, N được đưa về trụ sở Công an xã H làm việc.

Quá trình kiểm tra Công an huyện Lương Sơn phát hiện tại túi quần phía trước bên trái của N đang mặc 01 gói nilon màu trắng có viền xanh bên trong chứa các chất dạng tinh thể màu trắng, N khai nhận là ma túy tổng hợp dạng đá.

Tại Kết luận giám định số: 339/KLGĐ - CAT - PC09 ngày 07/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Chất dạng tinh thể màu trắng trong phong bì niêm phong gửi giám định có khối lượng là 0,15g (không phẩy mươi lăm gam) là ma túy, loại Methamphetamin.

Hoàn lại đối tượng giám định: 0,09 gam mẫu ma túy, loại Methamphetamin cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau khi giám định.

Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) phong bì nguyên vẹn, một mặt ghi chữ “MẪU GIÁM ĐỊNH MA TÚY” cán bộ giám định Đỗ Thành C, ngày niêm phong 08/11/2019 số nhận giám định số; 339 ngày 03/11/2019, số thông báo kết luận giám định số: 339 ngày 07/11/2019 . Cơ quan trưng cầu: Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình số: 198 ngày 03/11/2019 tên đối tượng Nguyễn Thị Thúy N, tên mẫu vật Methamphetamin, số lượng 01. Tại các mép dán có dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple, máy Iphone 6s máy đã qua sử dụng.

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 600.000 đồng đã trả cho Nguyễn Thị Thúy N.

- 01 (Một) xe máy điện nhãn hiệu Roma màu đen yên màu đỏ xe không có biển kiểm soát, không có gương chiếu hậu, xe đã qua sử dụng đã trả cho chủ sở hữu.

Cáo trạng số: 08/CT - VKSLS ngày 09/01/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thúy N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Thúy N, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thúy N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Thị Thúy N từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

- Vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì nguyên vẹn, một mặt ghi chữ “MẪU GIÁM ĐỊNH MA TÚY” cán bộ giám định Đỗ Thành C, ngày niêm phong 08/11/2019 số nhận giám định số: 339 ngày 03/11/2019, số thông báo kết luận giám định số: 339 ngày 07/11/2019. Cơ quan trưng cầu: Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn, Hòa Bình số: 198 ngày 03/11/2019 tên đối tượng Nguyễn Thị Thúy N, tên mẫu vật Methamphetamin, số lượng 01. Tại các mép dán có dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

+ Tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple, máy Iphone 6s máy đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thúy N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố, bị cáo đồng ý với tội danh, điều luật và mức hình phạt, vật chứng mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định Tố tụng: Cơ quan điều tra huyện Lương Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã được thực hiện theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng trình tự thủ tục, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Thúy N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của bị cáo, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra vụ án và phù hợp với vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà hôm nay. Như vậy HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 02/11/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn bắt quả tang bị cáo Nguyễn Thị Thúy N có hành vi tàng trữ trái phép 0,15 gram chất ma túy loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thúy N đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Thị Thúy N là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi vi phạm pháp luật hình sự của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác, nên phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự, để răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo tàng trữ 0,15 gram chất ma túy loại Methamphetamin, thuộc tình tiết định khung, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo Nguyễn Thị Thúy N không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, do vậy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định, theo quy định tại Điều 38 BLHS để cải tạo, giáo dục bị cáo, giúp bị cáo có thời gian cai nghiện chất ma túy và phòng ngừa tội phạm như đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện kinh tế của bị cáo là lao động tự do công việc không ổn định, không có tài sản do vậy không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS.

[7] Đối với đối tượng có liên quan:

- Ma túy mà Cơ quan Công an thu giữ Nguyễn Thị Thúy N khai mua của một người đàn ông tên là T nhà ở C, xã H, huyện L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn đã tiến hành nhận dạng tuy nhiên N không nhận ra ai là người bán ma túy cho mình vào ngày 02/11/2019 Cơ quan Công an huyện Lương Sơn tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh minh làm rõ sẽ xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với số thuê bao số: 0969.X.724 N gọi điện hỏi mua ma túy, ngày 21/02/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn đã ra lệnh thu giữ điện tín, điện tín số 04, ngày 07/3/2020 Tập đoàn CNVT Quân độiViettel có công văn trả lời số 571 với nội dung chủ thuê bao số: 0969.X.724 Nguyễn Văn T, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thạch Phú - Cờ Đỏ - Cần Thơ Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn đã ủy thác điều tra khi nào có kết quả sẽ xử lý sau là có căn cứ.

[8] Về vật chứng của vụ án:

- Số ma túy sau khi giám định được đựng trong 01 (Một) phong bì nguyên vẹn, một mặt ghi chữ “MẪU GIÁM ĐỊNH MA TÚY” cán bộ giám định Đỗ Thành C, ngày niêm phong 08/11/2019 số nhận giám định số: 339 ngày 03/11/2019, số thông báo kết luận giám định số: 339 ngày 07/11/2019. Cơ quan trưng cầu: Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn, Hòa Bình số: 198 ngày 03/11/2019 tên đối tượng Nguyễn Thị Thúy N, tên mẫu vật Methamphetamin, số lượng 01. Tại các mép dán có dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS - 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple, máy Iphone 6s máy đã qua sử dụng, là công cụ bị cáo Nguyễn Thị Thúy N dùng vào việc phạm tội nên tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước, theo quy định tại Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 600.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, Cơ quan Công an đã trả cho Nguyễn Thị Thúy N là đúng quy định của pháp luật.

- 01 xe máy điện nhãn hiệu Roma màu đen, yên màu đỏ, xe không có biển kiểm soát, không có gương chiếu hậu, việc N mượn xe của chị Hà Ngọc A, chị A không biết N mượn xe để đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho chị Hà Ngọc A là đúng pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thúy N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Thị Thúy N: 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2019.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì nguyên vẹn, một mặt ghi chữ “MẪU GIÁM ĐỊNH MA TÚY” cán bộ giám định Đỗ Thành C, ngày niêm phong 08/11/2019 số nhận giám định số: 339 ngày 03/11/2019, số thông báo kết luận giám định số: 339 ngày 07/11/2019. Cơ quan trưng cầu: Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn, Hòa Bình số: 198 ngày 03/11/2019 tên đối tượng Nguyễn Thị Thúy N, tên mẫu vật Methamphetamin, số lượng 01. Tại các mép dán có dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

- Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại máy Iphone 6s.

Các vật chứng trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn theo biên bản bàn giao vật chứng, ngày 20 tháng 01 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thúy N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2020/HS-ST

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;