Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 121/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 113/2020/HSST ngày 26 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa ra vụ án xét xử số 110/2020/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Trần Thanh X, sinh năm 1991 (có mặt);

- Tên gọi khác: T;

- Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp RT, xã MPT, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang;

- Nghề nghiệp: Buôn bán;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

- Trình độ học vấn: 02/12.

- Cha: Trần Văn L, sinh năm 1956 (chết);

- Mẹ: Nguyễn Thị L1, sinh năm: 1960. Nghề nghiệp: Nội trợ;

- Đăng ký thường trú: ấp RT, xã MPT, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang;

- Anh, chị, em: Bị cáo có 02 người chị, em, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1995, bị cáo là con thứ hai trong gia đình;

- Bị cáo chưa có vợ, con.

- Nhân Thân:

Ngày 23/5/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (Bản án số 11/2008/HSST); đã chấp hành xong án phí và hình phạt vào ngày 16/6/2010.

Ngày 22/6/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (Bản án số 23/2011/HSST); đã chấp hành xong án phí và hình phạt vào ngày 29/4/2012.

Ngày 01/11/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (Bản án số 37/2012/HSST); đã chấp hành xong án phí và hình phạt vào ngày 31/8/2016.

- Tiền án, tiền sự: không.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/8/2020, chuyển tạm giam từ ngày 04/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Nguyễn Thành S, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp TSB, xã TB, huyện CG, tỉnh Tiên Giang (vắng mặt).

- Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1972. Địa chỉ: Ấp TH xã TH, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt).

* Người làm chứng:

- Từ Quốc T2, sinh năm 1995. Địa chỉ: Ấp BP, xã BP, huyện CL, tỉnh Tiên Giang (vắng mặt).

- Nguyễn Hồng P, sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp H, xã ĐH, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 31/7/2020, bị cáo Trần Thanh X điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63S3-5227 chở bạn là Từ Quốc T2 đi đến xã Điềm Hy, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang để tìm người đã đánh bị cáo trước đó nhưng không được. Đến khoảng 01 giờ 45 phút, ngày 01/8/2020, bị cáo dừng xe trước nhà của Nguyễn Hồng P tại ấp Hưng, xã Điềm Hy, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang để mua ma túy với số tiền 500.000 đồng. Sau đó bị cáo điều khiển xe mô tô 63S3-5227 chở T2 đi và cầm trên tay 01 (một) bịch ma túy vừa mua, khi đến đoạn đường thuộc ấp Hưng, xã Điềm Hy, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, bị cáo bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

* Thu giữ, xử lý vật chứng, đồ vật liên quan vụ án:

- 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín, bên trong gói nylon có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá, gói nylon được niêm phong trong một bì thư có chữ ký ghi họ tên Trần Thanh X.

- 01 (một) điện thoại di động vỏ màu trắng có chữ SAMSUNG.

- 01 (một) xe mô tô hai bánh biển số 63S3-5227 do anh Nguyễn Thanh S đứng tên sở hữu.

Tại kết luận giám định số 165/KLGĐ-PC09 ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Các mẫu tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín có viền màu xanh một đầu, để trong một bì thư được niêm phong có chữ ký ghi họ tên: Trần Thanh X; gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,1780 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 118/CT-VKSCT ngày 23/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố bị cáo Trần Thanh X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Thanh X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Thanh X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Trần Thanh X từ 1 năm 6 tháng đến 2 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ thời điểm bắt tạm giữ là ngày 01/8/20120.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, trả lại bị cáo điện thoại di động.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, nhân chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh X đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo cho rằng do nghiện ma túy nên đã mua ma túy về sử dụng và sau đó bị bắt quả tang khi đang trên đường về.

Lời khai nhận tội trên của bị cáo cơ bản đã phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người làm chứng và các lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy đã đủ cơ sở xác định bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy, bị cáo là người đã thành niên, có sức khoẻ và khả năng nhận thức về hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ các chất ma túy là vi phạm pháp luật. Thế nhưng, để thõa mãn nhu cầu của cá nhân, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy để sử dụng. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi mà mình đã gây ra.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được chất ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của người sử dụng, là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội, các loại tội phạm, xâm phạm đến quyền quản lý của nhà nước về các chất gây nghiện, nó cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử phạt tù về hành vi trộm cắp tài sản, tuy nhiên bị cáo vẫn không ăn năn hối cải mà tiếp tục có hành vi phạm tội. Điều đó cho thấy bị cáo là người có ý thức xem thường pháp luật. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khoải xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích trong xã hội và phòng ngừa chung cho các đối tượng khác.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.. Vì vậy, Hội đồng xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Đối với Nguyễn Hồng P, cơ quan điều tra đang khởi tố vụ án, khởi tố bị can để xem xét hành vi liên quan đến ma túy xử lý sau.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Số ma túy còn lại sau giám định chứa trong 01 bì thư được niêm phong vụ số 165, ghi ngày 03/8/2020 có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên – bên giao), Nguyễn Quốc Phong (trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Ngọc Điệp (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CỒNG AN TỈNH TIỀN GIANG, cần tịch thu tiên hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG là tài sản của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trao trả cho bị cáo.

- 01 (một) xe mô tô hai bánh biển số 63S3-5227 do anh Nguyễn Thanh Son đứng tên sở hữu. Anh Son đã bán xe này, khi bán không làm thủ tục sang tên và anh không có yêu cầu gì. Hiện tại, xe do ông Nguyễn Thanh T1 sở hữu, ông Tâm đưa xe này cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thì ông Tâm hoàn toàn không biết. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trao trả xe lại cho ông Tâm.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

* Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về Hình phạt 

- Tuyên bố bị cáo Trần Thanh X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1,  Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử: Phạt bị cáo Trần Thanh X 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ thời điểm bắt tạm giữ là ngày 01/8/2020.

2. Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định chứa trong 01 bì thư được niêm phong vụ số 165, ghi ngày 03/8/2020 có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên – bên giao), Nguyễn Quốc Phong (trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Ngọc Điệp (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CỒNG AN TỈNH TIỀN GIANG.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động vỏ màu trắng có chữ SAM SUNG. (Các vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2020).

3. Về án phí: Bị cáo Trần Thanh X phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trưng hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6,7 và 9 Luật t hi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 121/2020/HS-ST

Số hiệu:121/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;