Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 120/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 120/2023/HS-ST NGÀY 05/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 05/6/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2023/TLST- HS ngày 13/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2023/QĐXXST- HS ngày 24/5/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vì Văn Th, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1976, tại Đ.

Nơi cư trú: Bản S M, xã S M, huyện ĐB, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vì Văn Pọm (Đã chết) và bà: Lò Thị Vương (Đã chết); có vợ: Vì Thị Ngân (Đã chết) và 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án: 01 tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/4/2020 bị TAND huyện ĐB xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 20/7/2021 chấp hành xong hình phạt tù bị cáo chưa được xóa án tích, chưa bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 05/01/2023 đến nay "Có mặt".

2. Họ và tên: Lò Văn T, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1964, tại Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản T 3, xã H T, huyện ĐB, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 8/10; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn P (Đã chết) và bà: Lò Thị H (Đã chết); có vợ: Phạm Thị B, sinh năm 1973 và 02 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2003; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 31/10/2000 bị TAND huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu xử phạt 20 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy. Ngày 21/6/2002 chấp hành xong hình phạt tù bị cáo đã được xóa án tích; Ngày 05/02/2009 bị TAND thị xã Mường Lay, tỉnh Đ xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 19/12/2010 chấp hành xong hình phạt tù bị cáo đã được xóa án tích, chưa bị xử lý hành chính. Bị bắt từ ngày 05/01/2023 đến nay "Có mặt".

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị B, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Bản T 3, xã H T, huyện ĐB, tỉnh Đ "Có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05/01/2023, bị cáo Th đi xe mô tô đến nhà bị cáo T ở Bản T 3, xã H T, huyện ĐB rủ nhau cùng đi mua ma túy về sử dụng. Bị cáo Th cất xe mô tô của bị cáo ở khu vực công trình trụ sở Công an xã H T và đưa tiền 250.000đ cho bị cáo T cầm. Sau đó bị cáo Th dùng xe gắn máy BKS 27AA-xxxxx của bị cáo T để đèo nhau đi mua ma túy. Cả hai đến khu vực đầu bản Lĩnh, xã Mường Pồn, huyện ĐB. Hai bị cáo gặp và mua được 01 gói Heroine với giá tiền là 250.000đ của một người thanh niên dân tộc Thái, khoảng 20 tuổi, không biết tên và địa chỉ. Sau đó bị cáo T đưa gói Heroine cho bị cáo Th cầm rồi bị cáo T điều khiển xe chở bị cáo Th đi về nhà. Hồi 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi hai bị cáo đi đến khu vực bản Lĩnh, xã Mường Pồn, huyện ĐB thì bị tổ công tác Công an xã Mường Pồn, huyện ĐB dừng xe kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 01 gói Heroine tại tay trái của bị cáo Th và xe gắn máy BKS 27AA-xxxxx.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 05/01/2023 đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Vì Văn Th, Lò Văn T có khối lượng là 0,24 gam;

trên.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu Tại bản kết luận giám định số: 156/KL-KTHS ngày 13/01/2023, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng vật chứng thu giữ của Vì Văn Th, Lò Văn T gửi giám định là Heroine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 60/CT-VKSĐB ngày 12/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố các bị cáo Vì Văn Th, Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện ĐB vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52/BLHS; Điều 17; Điều 38; Điều 58/BLHS đối với bị cáo Th. Đề nghị xử phạt bị cáo Th từ 17 đến 23 tháng tù; áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 17; Điều 38; Điều 58/BLHS đối với bị cáo T. Đề nghị xử phạt bị cáo T từ 15 đến 21 tháng tù;

Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2, Khoản 4 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,24 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ ( hoàn lại mẫu vật sau khi giám định 0,18 gam) và tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc xe gắn máy BKS 27AA-xxxxx, nhãn hiệu BOSSCITY, đã cũ do bị cáo T dùng vào việc phạm tội;

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận gì với Luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của các bị cáo: Ngày 05/01/2023 bị cáo Th từ nhà mình đến nhà bị cáo T để rủ nhau đi mua ma túy về sử dụng, sau khi mua được ma túy thì các bị cáo đang đèo nhau về bằng xe gắn máy của bị cáo T thì bị bắt quả tang 01 cục Heroine có khối lượng 0,24 gam. Hành vi của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội của tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi của các bị cáo và khối lượng ma túy bị thu giữ thì các bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Các bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà các bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Th có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52/BLHS.

Sau khi phạm tội và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, không có sự phân công vai trò trách nhiệm cụ thể cho từng người nên vụ án không có tổ chức. Bị cáo Th là người khởi sướng; bị cáo T là người đồng phạm tích cực vì trực tiếp mua ma túy để sử dụng;

Để cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Để cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp, cần chấp nhận.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện ĐB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do các bị cáo mua của người thanh niên khoảng 20 tuổi, không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.

[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

[8]. Vật chứng: 0,24 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,18 gam) cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Đối với chiếc xe gắn máy BKS 27AA-xxxxx, nhãn hiệu BOSSCITY, màu đen vàng, có số khung: RL8SCDUMH1000902, số máy: RL8139FMBY2SH200902. Xe đã qua sử dụng (là tài sản chung của hai vợ chồng Lò Văn T và Phạm Thị B) do các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. T bố: Các bị cáo Vì Văn Th, Lò Văn T đều phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: - Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 17, Điều 38, Điều 58/Bộ luật hình sự 2015xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 05/01/2023.

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52/BLHS; Điều 17, Điều 38, Điều 58/BLHS xử phạt bị cáo Vì Văn Th 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 05/01/2023.

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

4. Về vật chứng: - Tịch thu, tiêu hủy 0,24 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,18 gam), tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe gắn máy BKS 27AA-xxxxx, nhãn hiệu: BOSSCITY, màu sơn: đen vàng, có số khung: RL8SCDUMH1000902, số máy: RL8139FMBY2SH200902 theo quy định tại Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

- Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự theo quy định tại Khoản 4 Điều 106/BLTTDS.

(Vật chứng đã được công an huyện ĐB chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB ngày 13/4/2023).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333/BLTTHS; Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần trực tiếp có liên quan trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 120/2023/HS-ST

Số hiệu:120/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;