TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 118/2021/HSST NGÀY 10/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 113/2021/TLST-HS ngày 26-4-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2021/QĐXXST-HS ngày 26-4-2021 đối với bị cáo.
Họ và tên: Vũ Minh T, sinh năm 1976 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 167 đường P, phường H, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Minh N và bà Trần Thị X; đã ly hôn vợ và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 23 tháng 01 năm 2021 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người làm chứng: Anh Đặng Ngọc S - sinh năm 1995; anh Trần Duy H - sinh năm 1999 (anh S và anh H vắng mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 23-01-2021, tổ công tác Công an phường N, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 122 đường G, phường T, thành phố N phát hiện Vũ Minh T đang điều khiển xe máy biển kiểm soát U7-8562 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình bắt giữ, tổ công tác đã thu giữ 01 gói ni lông màu đen T thả từ trên tay trái xuống đất, mở kiểm tra bên trong là 01 gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là gói Heroine của mình vừa mua chưa kịp sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa T và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường N, thành phố N lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của T 01 xe máy biển kiểm soát U7- 8562 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh đều đã cũ.
Bản kết luận giám định số 148/GĐKTHS ngày 27-01-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 (một) gói giấy bạc màu trắng bên ngoài bọc ni lông màu đen (thu giữ của T) trong phong bì thư được niêm phong gửi giám định là ma túy; loại ma túy: Heroine; khối lượng mẫu: 0,114 (không phảy một trăm mười bốn gam).
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Minh T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23-01-2021, T điều khiển xe máy biển kiểm soát U7- 8562 đến khu vực hồ T, phường L, thành phố N mục đích mua ma túy để sử dụng. Đến nơi T gặp và mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi không quen biết 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Khi đi đến trước cửa số nhà 122 đường G, phường T, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.
Bản Cáo trạng số 115/CT-VKSTPNĐ ngày 14-4-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Vũ Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, bị cáo Vũ Minh T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Vũ Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý thu giữ của bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Minh T phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định số 148/GĐKTHS ngày 27-01- 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 23-01- 2021, tại khu vực trước cửa số nhà 122 đường G, phường T, thành phố N bị cáo bị cáo đã có hành vi cất giấu trong người 01 gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu trắng chứa chất ma túy, loại ma túy: Heroin, khối lượng: 0,114 gam mục đích để sử dụng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất do Nhà nước độc quyền quản lý nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho nhu cầu của bản thân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh không phải là công cụ phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo và chiếc xe máy biển kiểm soát U7-8562 tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Minh T bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
- Tuyên bố bị cáo Vũ Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Vũ Minh T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 23 tháng 01 năm 2021.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 148. Trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 16-4-2021 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).
3. Án phí: Bị cáo Vũ Minh T phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Minh T được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 118/2021/HSST
Số hiệu: | 118/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về