Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 116/2022/HS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2022/TLST- HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2022/HSST-QĐ ngày 27/4/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2022/QĐXXST-HS ngày 10/5/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Quốc L, sinh năm 1996, tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: 6/3 tổ 3, khu phố B1, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con Huỳnh Văn N, sinh năm 1968 và bà Đặng Lệ H, sinh năm 1968; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 13/01/2022, sau đó chuyển sang tạm giữ, tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1968; địa chỉ: 6/3 tổ 3, khu phố Bình Hòa 1, phường Khánh, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Lê Kim B, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Quốc L là đối tượng nghiện ma túy loại Methamphetamine từ năm 2016. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/01/2022, Huỳnh Quốc L điều khiển xe mô tô biển số 60T4-5133 đến khu vực Trường trung học cơ sở P thuộc phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Khi đến gần trường P, L nhìn thấy T (không rõ lai lịch) là bạn ngoài xã hội đang đi bộ trên đường. Do đang có nhu cầu sử dụng ma túy nên L nhờ T hỏi mua cho L 200.000 đồng ma túy đá. T đồng ý và gọi điện thoại cho người bán ma túy tên thường gọi là M (không rõ lai lịch). Sau khi liên lạc với M, T chỉ dẫn L đến đoạn đường ở khu vực cầu X thuộc phường K, thị xã T gặp M để mua ma túy. Nghe vậy, L điều khiển xe mô tô biển số 60T4-5133 theo chỉ dẫn của T để mua ma túy. Khi đến khu vực cầu Xéo, T gặp M hỏi mua 200.000 đồng ma túy. M đưa cho L 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng bên trong gói 01 túi nylon miệng kéo dính có chứa ma túy đá và nhận của L 200.000 đồng. Sau đó, M đi đâu không rõ.

L cầm ma túy rồi điều khiển xe mô tô đi về hướng phường H, thị xã T để tìm nơi sử dụng. Khi đến đoạn đường ĐX13 thuộc khu phố N, phường H, thị xã T thì bị lực lượng Công an phường H tuần tra phát hiện. L khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá mua để sử dụng. Công an phường H niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Vật chứng bị thu giữ gồm:

- 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Warm màu đỏ biển số 60T4 – 5133.

Tại Bản kết luận giám định số 83/MT-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của Huỳnh Quốc L là ma túy, có khối lượng 0,2347 gam, loại Methamphetamine.

Xe mô tô nhãn hiệu Warm màu đỏ biển số 60T4 – 5133 do bà Ngô Thị H(sinh năm 1982, HKTT: ấp 1, xã X huyện C, tỉnh Đồng Nai) đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Kết quả xác minh tại Công an xã X, huyện C tỉnh Đồng Nai xác định hiện tại bà H không có mặt tại địa phương và đi đâu làm gì không rõ. Ông Huỳnh Văn N là cha của Huỳnh Quốc L mua xe này của bà H vào tháng 4/2021 với giá 2.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định. Ông Nghiệp không biết việc L sử dụng xe này để đi mua ma túy. Kết quả tra cứu tại Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương xác định xe mô tô biển số 60T4 – 5133 không trùng với xe vật chứng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ban hành thông báo tìm chủ sở hữu đối với xe mô tô này gửi Đài truyền thanh thị xã T để phát thanh trên sóng truyền thanh thị xã T nhưng không có kết quả. Ngày 22/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ban hành quyết định xử lý vật chứng số 321 trả lại xe này cho ông N.

Cáo trạng số 93/CT-VKS.TU ngày 28/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Quốc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Về tình tiết tăng nặng: Không có. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng. Đối với xe mô tô biển số 60T4-5133 được xác định là tài sản hợp pháp của ông Huỳnh Văn N, ông N không biết bị cáo dùng xe đi mua ma túy nên Cơ quan Điều tra đã trả lại xe cho ông đúng N là đúng quy định.

Đối với đối tượng tên M đã bán ma túy cho bị cáo và đối tượng tên T đã giúp bị cáo liên hệ mua ma túy do chưa xác định được lai lịch, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau là đúng quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận và nhận thức được hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về xã hội, làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, người làm chứng ông Lê Kim B vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Quá trình điều tra ông Bình đã có lời khai đầy đủ, việc vắng mặt của ông B không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng đề nghị xét xử vắng mặt người làm chứng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt người làm chứng.

[3] Đối với đối tượng tên M đã bán ma túy cho bị cáo và đối tượng tên T đã giúp bị cáo liên hệ mua ma túy do chưa xác định được lai lịch, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau là đúng quy định.

[4] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 13/01/2022, bị cáo Huỳnh Quốc L đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,2347 gam với mục đích sử dụng. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ý thức được tác hại của ma túy đối với xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, bất chấp hậu quả. Hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy đang diễn ra phức tạp, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự khác. Do đó, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo, rèn luyện đồng thời đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung trong nhân dân. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét toàn diện tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để có hình phạt tương xứng.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đối với khối lượng ma túy còn lại sau giám định là chất cấm nên tịch thu tiêu hủy. Đối với tờ tiền mệnh giá 1000 đồng cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Đối với xe mô tô Wave biển số 60T4 – 5133 là tài sản hợp pháp của ông Huỳnh Văn N, ông N không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Công an đã trả lại xe cho ông N là đúng quy định.

[9] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Quốc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Huỳnh Quốc L 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/01/2022.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy đối với khối lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định là 0,1984 gam được niêm phong trong bì thư theo Kết luận giám định số: 83/MT-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) tờ tiền mệnh giá 1000 đồng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Bị cáo Huỳnh Quốc L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2022/HS-ST

Số hiệu:116/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;