Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 112/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 105/2023/TLST- HS ngày 29/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2023/QĐXXST- HS ngày 12/10/2023 đối với bị cáo:

Bạc Cầm T, sinh năm 2000, tại tỉnh Điện Biên; Nơi đăng ký HKTT; chỗ ở: Bản M, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên.; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bạc Cầm M và bà Quàng Thị M1; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 08/7/2023, chuyển tạm giam từ ngày 14/7/2023 đến nay; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1978 -Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam. Vắng mặt. (Có đơn xử vắng mặt và bản luận cứ bào chữa gửi đến Tòa, bị cáo đồng ý xử vắng mặt).

* Người làm chứng: Anh Cao Đăng H, sinh năm 1983; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 08/7/2023, Bạc Cầm T đang ở công trường khu công nghiệp Đ3, thuộc tổ dân phố B, phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam thì có bạn nghiện mới quen tên là K khoảng 25 tuổi điều khiển xe mô tô đến gặp T. Trong lúc nói chuyện, K rủ T góp tiền mua ma túy sử dụng, T đưa 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) cho K. K cầm tiền và chở T đi một đoạn rồi dừng lại bảo T xuống xe chờ. Khoảng 10 phút sau K quay lại đưa cho T vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, T cầm vỏ bao thuốc lá K đưa thấy bên trong lớp nilon tiếp giáp với vỏ bao thuốc lá có hai gói giấy màu trắng, T biết đó là hai gói ma túy nên không mở ra kiểm tra và cất giữ trong túi quần bên phải rồi lên xe K chở đi đến gần ngã tư thuộc thôn KĐT, xã T, thành phố P thì K dừng xe bảo T xuống xe đứng đợi để K đi mua xi lanh sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang đứng đợi K tại khu vực ngã tư chợ T thuộc thôn KĐT, xã T, thành phố P thì bị lực lượng Công an xã T, thành phố P kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Thu giữ vật chứng gồm 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01); 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 Màu đen.

Ngày 08/7/2023, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bạc Cầm T tại tổ dân phố B, phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số 425/KL-KTHS ngày 13/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,174 gam loại: Heroine” Tại bản cáo trạng số 113/CT-VKS-PL ngày 28/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Bạc Cầm T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Bạc Cầm T và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên bố bị cáo Bạc Cầm T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; Xử phạt bị cáo Bạc Cầm T từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long. Trả lại bị cáo 01 điện thoại Nokia 105 màu đen (cũ, đã qua sử dụng), nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa, bị cáo Bạc Cầm T đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bản luận cứ của người bào chữa đề nghị; bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, luôn chấp hành chủ trương chính sách pháp luật tại địa phương; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Bị cáo là người dân tộc Thái thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định 861/ QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính Phủ. Bản thân bị cáo trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết pháp luật nên đề nghị cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm sớm trở về gia đình, xã hội làm công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt người bào chữa ông Nguyễn Văn T nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và bản bào chữa gửi đến phiên tòa, bị cáo đồng ý Tòa xét xử vắng mặt và Tòa công bố bản luận cứ bào chữa của trợ giúp pháp lý là đúng theo quy định pháp luật.

Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử và công bố lời khai là đúng trình tự luật định.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bạc Cầm T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ buộc tội kết luận:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 08/7/2023, tại khu vực ngã tư chợ T thuộc thôn KĐT, xã T, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Bạc Cầm T đang cất giữ trái phép khối lượng 0,174 gam chất ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an xã T phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng truy tố, lời buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo Bạc Cầm T tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt lần đầu phạm tội, chưa có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử cũng cân nhắc tình tiết này khi lượng hình.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Bạc Cầm T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Bị cáo là người dân tộc Thái, thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định 861/ QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính Phủ. Bản thân bị cáo trình độ học vấn thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác. Do vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Song xét bị cáo không có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ của Bạc Cầm T: Quá trình điều tra, T khai số ma túy trên của người đàn ông tên K khoảng 25 tuổi không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Ngoài lời khai của T không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Về vật chứng và tài sản đã thu giữ: Đối với số ma túy loại: Heroine được niêm phong trong phong bì số 425/KTHS là vật cấm tàng trữ do vậy cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long không còn giá trị sử dụng. Trả lại Bạc Cầm T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen (cũ, đã qua sử dụng) vì đây là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội; nhưng tạm giữ lại để đảm bảo Thi hành án dân sự.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

                                                                QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Bạc Cầm T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Bạc Cầm T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ (ngày 08/7/2023).

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại: Heroine trong 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 425/KTHS và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long.

Trả lại Bạc Cầm T 01 điện thoại Nokia 105 màu đen (cũ, đã qua sử dụng);

nhưng tiếp tục tạm giữ lại để đảm bảo Thi hành án dân sự.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 29/9/2023.

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Bạc Cầm T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2023/HS-ST

Số hiệu:112/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;