TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 11/2022/HSST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2022/HSST ngày 23 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/QĐXXST-TA, ngày 08/ 4 / 2022 đối với bị cáo:
Phan Đình T: Sinh năm 1996, xã C, huyện Q, Nghệ An.
Trú tại: bản L, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Giới tính: Nam, dân tộc kinh, tôn giáo không, quốc tịch Việt Nam,trình độ văn hóa 08/12, nghề nghiệp lao động tự do. Đảng, đoàn không, con ông Phan Văn T và con bà Nguyễn Thị L, vợ, con chưa có.Tiền án,tiền sự, không, nhân thân năm 2017 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã chấp hành xong. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/ 01/2022 cho đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ ngày 20/01/2022, T đi bộ đến dốc bản N, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An thì gặp một người đàn ông tên T và hỏi mua ma túy với người này để sử dụng thì người này đồng ý, rồi T đưa cho người này số tiền 300.000 đồng và người này đưa cho T 01 gói ma túy được bọc ngoài cùng là túi ni long màu trắng. Sau đó T cầm gói ma túy này đi lên dốc để sử dụng. Đang đi lên dốc thì gặp lực lượng Công an xã C thì T bỏ chạy, rồi ném gói ma túy xuống đường cách vị trí đang đứng 01 mét để phi tang thì bị lực lượng công an xã C phát hiện và bắt quả tang, thu giữ trên mặt đất nơi T bị bắt 01 gói ni lông màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là Hê rô in có khối lượng 0,69 gam, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL đã qua sử dụng, 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.
Tại bản kết luận giám định số 268/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 28/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Phan Đình T gửi tới giám định là ma túy Hêrôin. Số chất bột nén màu trắng thu giữ của Phan Đình T có khối lượng là 0,69 gam ( không phẩy sáu mươi chín gam)
Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại nhãn hiệu ITEL màu xanh đen đã qua sử dụng, 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng. 01 phong bì thư niêm phong bên trong có 01 có 01 vỏ bao niêm phong, 01 gói ni lông màu trắng và 0,565g Hêrôin.
Bản cáo trạng số: 21/CT-VKSQH, ngày 21/ 3 /2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Phan Đình T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51BLHS, xử phạt bị cáo Phan Đình T từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Về vật chứng áp dụng Điều 106 BLHS tịch thu tiêu hủy 0,565 gam Hêrôin, 01 bơm kim tiêm, trả cho bị cáo 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu ITEL màu xanh đen.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng.
Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra,truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[ 2 ] Những chứng cứ xác định có tội, chứng xác định không có tội.
Lời khai của bị cáo, Kết luận giám định, biên bản bắt người pham tội quả tang, lời khai người làm chứng thì bị cáo có hành vi phạm tội như sau: Vào lúc 15 giờ, ngày 20/01/2022 Công an xã C đã phát hiện bắt quả tang Phan Đình T có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Hê rô in có khối lượng 0,69 gam. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Phan Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.
[ 3 ] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Xét tính chất của vụ án, đây la một vụ án nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Do đó, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục và góp phần phòng ngừa chung.
Xét nhân thân của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân xấu, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Do vậy cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo trở thành một con người có ích cho gia đình và xã hội.
[ 4 ] Về vật chứng: Cần tuyên tịch thu tiêu hủy số Hê rô in và 01 bơm kim tiêm thu của bị cáo, trả lại 01 chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng cho bị cáo Phan Đình T.
[ 6 ] Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.
Đối với người đàn ông tên T bán ma túy cho bị cáo T không xác định được họ tên tuổi và địa chỉ, nên không có cơ sở để xử lý về trách nhiệm hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố bị cáo Phan Đình T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Phan Đình T: 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 20/01/2022.
[ 2 ] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong theo quy định bên trong có chứa 0,565gam Hêrôin, 01 bơm kim tiêm thu của Phan Đình T, trả lại cho Phan Đình T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu xanh đen đã qua sử dụng chi tiết thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q.
[ 3 ] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phan Đình T phải chịu án phí HSST là 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HSST
Số hiệu: | 11/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về