Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 21/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 94/2021/TLST- HS ngày 31/12/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST- HS ngày 08/02/2022 đối với các bị cáo:

Dương Văn B, tên gọi khác: Không; sinh ngày 09 tháng 02 năm 1985 tại huyện N, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố T, thị trấn N, huyện N, tỉnh Tuyên Quang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Con ông Dương Văn N, sinh năm 1948 và bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1947; Anh, chị, em ruột: Có 06 anh chị em, bị cáo là thứ sáu; Vợ: Lộc Thị M, sinh năm 1982; con: Có hai con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2013; Đảng, đoàn thể: Không.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên tòa).

Trần Quang C1, tên gọi khác: Không; sinh ngày 30 tháng 3 năm 1988, tại huyện N, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 10, thị trấn N, huyện N, tỉnh Tuyên Quang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; con ông Trần Văn T2, sinh năm 1962 và bà Hoàng Thị T3, sinh năm 1959; Anh, chị, em ruột: Có 02 anh chị em, bị cáo là thứ hai; Vợ: Nguyễn Thị T4, sinh năm 1995; Con: Có 01 con sinh năm 2021; Đảng, đoàn thể: Không.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên tòa).

Ng ưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Thị T5, sinh năm 1984.

Tổ 10, thị trấn N, huyện N, tỉnh Tuyên Quang (Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 22/9/2021, Trần Quang C1, sinh năm 1988, trú tại tổ 10, thị trấn N, huyện N, tỉnh Tuyên Quang rủ Dương Văn B, sinh năm 1985, trú tại tổ dân phố T, thị trấn N, huyện N cùng đi xuống huyện C để tìm mua ma túy về sử dụng, B đồng ý. C1 điều khiển xe mô tô hiệu YAMAHA - JUPITER biển kiểm soát 22K8 - 4740 (xe của chị Trần Thị T5 chị gái C1) còn B ngồi sau cùng đi đến khu vực xã N1, huyện C tỉnh Tuyên Quang. Trên đường đi B đưa cho C1 số tiền 480.000 đồng để mua chất ma túy. Khi C1 và B đi đến khu vực thuộc thôn Đ, xã N, huyện C thì gặp một người đàn ông không quen biết nhìn giống người nghiện ma túy, C1 điều khiển xe đến gần và nói “Anh có hàng không lấy em bốn trăm tám”, đồng thời đưa cho người đàn ông trên số tiền 480.000 đồng, người này cầm tiền và đưa cho B 01 gói nhỏ chất ma túy, bên ngoài là lớp giấy bạc màu vàng, tiếp theo là lớp nilon màu xanh, tiếp theo là lớp giấy màu xanh, trong cùng là chất ma túy loại Heroine dạng bột vón cục màu trắng. Sau khi mua được Heroine C1 và B vào bụi cây ven đường san một ít ra sử dụng bằng cách đốt hít vào cơ thể; số Heroine còn lại C1 gói lại như cũ và đưa cho B cầm và thống nhất về đến nhà sẽ cùng sử dụng tiếp. Trên đường quay về đến khu vực thôn Đ, xã N, huyện C thì gặp tổ công tác Công an huyện C yêu cầu dừng lại để kiểm tra, đồng thời mời người chứng kiến cùng tham gia. Tại đây B tự giác giao nộp gói ma túy còn lại nêu trên. Hồi 22 giờ 40 phút cùng ngày tổ công tác Công an huyện C, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ cùng toàn bộ vật chứng vụ án.

Ngày 23/9/2021, tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Dương Văn B, Trần Quang C1 kết quả: (+) Dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.

Tại kết luận giám định số 849/ GĐKTHS ngày 26/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,133g (không phẩy một ba ba gam).

Cáo trạng số: 01/CT-VKSCH ngày 30/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang truy tố Dương Văn B, Trần Quang C1 về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt các bị cáo Dương Văn B từ 01 (một) năm 01 (một) tháng đến 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Dương Văn B bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 23/9/2021; xử phạt bị cáo Trần Quang C1 từ 01 (một) năm 01 (một) tháng đến 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Trần Quang C1 bị bắt tạm giam ngày 26/9/2021.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Dương Văn B, Trần Quang C1, được niêm phong có chữ ký xác nhận và có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Đối với người đàn ông bán Heroine cho Dương Văn B, Trần Quang C1 do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để đề nghị xem xét.

Đối với chị Trần Thị T5 là chủ sở hữu hợp pháp xe mô tô BKS 22K8 - 4740, ngày 22/9/2021 chị không biết Trần Quang C1 sử dụng làm phương tiện để phạm tội, do vậy không đề nghị xem xét.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Dương Văn B, Trần Quang C1. Ngày 20/12/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo do vậy không đề nghị xem xét.

Đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án đối với các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1 đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho các bị cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đề nghị các bị cáo bồi thường nên không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không yêu cầu người bào chữa cho các bị cáo.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Hồi 22 giờ 40 phút ngày 22/9/2021, tại thôn Đ, xã N, huyện C, tỉnh Tuyên Quang, Dương Văn B, Trần Quang C1 đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,133g (không phẩy một ba ba gam), mục đích để sử dụng, đủ cơ sở xác định các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Ma túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, nhưng các bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, trao đổi, phân công trước khi phạm tội. Các bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1 có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo Trần Quang C1 là người trực tiếp rủ bị cáo B, mượn xe mô tô, điều khiển xe và giao dịch mua Heroine; bị cáo B là người đưa tiền cho bị cáo C1 mua Hêrôin, trực tiếp cất dấu Hêrôin nên mức độ phạm tội như nhau, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng các Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm C1; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần áp dụng khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm C1.

[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của các bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1 xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, do vậy không có căn cứ xử lý trong vụ án.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Dương Văn B, Trần Quang C1, Công an huyện C đã ra Quyết định xử phạt hành chính nên không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị T5 có đơn xin xét xử vắng mặt, không đề nghị các bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51; khoản 1 Điều 38, Điều 17, Điều 58, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt:

Xử phạt Dương Văn B 01 (một) năm 01 (một) tháng tù.

Xử phạt Trần Quang C1 01 (một) năm 01 (một) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo Dương Văn B tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 23/9/2021.

Thời hạn tù của bị cáo Trần Quang C1 tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 26/9/2021.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của các bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1 trong 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của các bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1, thành phần tham gia và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi tang vật vụ Dương Văn B, Trần Quang C1 giám định ngày 23/9/2021.

Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/01/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

Về án phí: Các bị cáo Dương Văn B, Trần Quang C1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 21/02/2022. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Bình - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;