Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 111/2022/HS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 129/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 123/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trịnh Thành N; Sinh ngày: 27/10/1979; Nơi ĐKHKTT: Lý Thái Tông, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trịnh V (Đã chết) và con bà Nguyễn Thị Th; Có vợ Vũ Thị Huyền Tr và con 02 con ( Con lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2021);Tiền án: Ngày 16/3/2020, bị TAND huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/01/2021); Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 01/10/2001, bị TAND tỉnh Hòa Bình xử phạt 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 19/12/2006, bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 05/12/2019, bị Công an thành phố Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”.

Tạm giữ từ ngày 17/11/2021 đến ngày 26/11/2021chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa.

2. Trần Tuấn A; Sinh ngày: 20/11/1974; Nơi cư trú: nhà 20, Chung cư Đ , phường Đ, thành phố Thanh Hóa; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn Hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trần Văn M ( Đã chết) và con bà; Huỳnh Thị T, Sinh năm: 1945; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/3/2017, bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tạm giữ từ ngày 17/11/2021 đến ngày 26/11/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa.

3. Nguyễn Thị Tr; sinh ngày: 08/9/1997; Nơi cư trú: Ấp Kh, xã T, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn P và con bà: Nguyễn Thị T; Tiền án, tiền sự: Không.

Tạm giữ từ ngày 17/11/2021 đến ngày 26/11/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10h ngày 17/11/2021, tổ công tác Đội cảnh sát ĐTTP về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa kiểm tra hành chính chung cư C5 phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá. Tại phòng có Trịnh Thành N, Trần Tuấn A, Nguyễn Thị Tr và Đinh Thị Ph, khi bị kiểm tra, N tự giác lấy từ túi quần bên trái phía trước đang mặc 01 túi nilon màu trắng, KT 5x8 cm, bên trong bám dính chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. N khai nhận chất bám dính trong túi nilon là ma túy loại Heroin của N đang cất giấu với mục đích để sử dụng. Ngoài ra, tổ công tác còn phát hiện trên mặt bàn cạnh cửa ra vào có 01 túi nilon màu trắng, viền đỏ, kích thước khoảng 1,5 x1,5 cm bên trong chứa 01 viên nén hình tròn, màu đỏ đường kính khoảng 0,3cm. Tại chỗ, Nguyễn Thị Tr và Trần Tuấn A khai nhận đó là viên hồng phiến của Trần Tuấn A cho Tr để sử dụng, Tr chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện thu giữ tang vật. Đối với Đinh Thị Ph khai không biết và không liên quan đến việc tàng trữ ma túy của N, Tuấn A và Tr. Ngoài ra, còn thu giữ của Tuấn A 02 điện thoại di động (01 Nokia và 01 OPPO) và của Tr 01 điện thoại Iphone XS max. Tổ công tác tiến hành lập biên bản và thu giữ tang vật theo quy định của pháp luật.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trịnh Thành N ở chung cư C5 phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 3488/PC09 ngày 22/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định kết luận:

- Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong kí hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,015g loại Heroine.

- 01 viên nén màu đỏ đường kính khoảng 0,3cm của phong bì niêm phong kí hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,108g loại Methamphetamine.

Về nguồn gốc ma tuý Trịnh Thành N khai nhận: Trước ngày bị bắt khoảng 1 tháng, N đến khu vực cột mốc số 5 xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá mua của 1 người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên, quán chỉ 01 gói Heroine với giá 1.000.000đ. N đem về nhà chia nhỏ và sử dụng dần đến ngày bị bắt. Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr khai nhận: Tối ngày 10/11/2021, Tuấn A được 01 người bạn xã hội, không rõ địa chỉ tự xưng tên Cuội gặp Tuấn A tại Quảng Trường Lam Sơn, thành phố Thanh Hoá và cho Tuấn A 01 viên hồng phiến để sử dụng, sau đó Tuấn A đã cho Nguyễn Thị Tr để Tr sử dụng thì bị Công an phát hiện thu giữ tang vật.

Đối với Đinh Thị Ph, có mặt tại nhà Trịnh Thành N, khi Công an đến kiểm tra. Việc N, Tuấn A và Tr tàng ma tuý Phương không biết và cũng không tham gia nên không phạm tội.

Đối với 02 người đàn ông Trinh Thành N và Trần Tuấn A khai đã bán ma tuý cho N và cho Tuấn A ma tuý, do Tuấn A và N đều không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa không có căn cứ để xử lý.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra.

* Về vật chứng:

01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự, kèm theo chữ ký, chữ viết của Trần Thị Thương và Nguyễn Trần Đăng;

- 01 điện thoại di động Nokia di động màu đen và 01 điện thoại di động OPPO màu đen ( đã cũ) thu giữ của Trần Tuấn A.

- 01 điện thoại di động Iphone Xs Max thu giữ của Nguyễn Thị Tr.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 73/2022/THA ngày 01/ 3/2022 giữa Công an với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Tại bản cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 10/ 02/ 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, đã truy tố bị cáo Trịnh Thành N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và truy tố các bị cáo Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng: Điểm a Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trịnh Thành N và áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr. Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự. Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

- Tuyên bố: Các bị cáo Trịnh Thành N; Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Mức hình phạt đại diện VKS đề nghị áp dụng đối với: Trịnh Thành N; Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr từ 12 đến 15 tháng tù;

- Về vật chứng:

-Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy và tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với 03 điện thoại di động.

- Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không trA luận với quan điểm luận tội của đại diện VKS.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi quyết định của người tiến hành tố tụng.

[ 2] Về hành vi phạm tội: Khoảng 10h ngày 17/11/2021, tại phòng 706 tòa A1, chung cư C5 phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá, Trịnh Thành N đã có hành vi tàng trữ 0,015g ma túy loại Heroin; Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr tàng trữ 0,108g ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ tang vật.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án.

Trong vụ án này, tuy bị cáo Trịnh Thành N tàng trữ ma túy với khối lượng 0,015g ma túy loại Heroin là dưới mức tối thiểu được quy định tại điều luật, nhưng do năm 2020 Trịnh Thành N đã bị kết án về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích. Đây là tình tiết định tội đối với bị cáo theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của bộ luật hình sự.

Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của bị cáo Trịnh Thành N có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Tuấn A, Nguyễn Thị Tr có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự Vì vậy VKSND thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo Trịnh Thành N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và truy tố các bị cáo Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hiện nay tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho toàn xã hội, là nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, là một trong những tác nhân làm gia tăng nhiều loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Đánh giá về vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị cáo:

Về vai trò: Trong vụ án này hành vi “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Trịnh Thành N là độc lập. Riêng bị cáo Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr đồng phạm với nhau cùng tàng trữ 01viên ma túy, nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, không bàn bạc phân công vai trò cụ thể, nên chỉ ở dạng đồng phạm giản đơn và có vai trò ngang nhau.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Không [5] Về hình phạt: Căn cứ vào nhân thân và tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thì cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng:

Đối với 01 phong bì ma túy là vật cấm tàng trữ, lưu hành và 03 điện thoại di động có liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó cần áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự. Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy đối với số ma túy và tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với 03 điện thoại di động.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điểm a khoản 1 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm a Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với Trịnh Thành N.

Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr.

Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự. Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điểm a khoản 1 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Các bị cáo Trịnh Thành N; Trần Tuấn A và Nguyễn Thị Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

Trịnh Thành N 14 ( Mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/11/2021 ( ngày tạm giữ).

Trần Tuấn A 14 ( Mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/11/2021 ( ngày tạm giữ).

Nguyễn Thị Tr 13 ( Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/11/2021 ( ngày tạm giữ).

Về vật chứng:

-Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh ThA Hóa có dấu của Phòng Kỹ Thuật hình sự, kèm theo chữ ký, chữ viết của Trần Thị Thương và Nguyễn Trần Đăng;

-Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Nokia di động màu đen; 01 điện thoại di động OPPO màu đen ( đã cũ) thu giữ của Trần Tuấn A và 01 điện thoại di động Iphone Xs Max thu giữ của Nguyễn Thị Tr;

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 73/2022/THA ngày 01/ 3/2022 giữa Công an với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2022/HS-ST

Số hiệu:111/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;