Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 111/2021/HSST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 116/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vừ A K - Sinh ngày 18 tháng 7 năm 1990; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản T, xã C, huyện S, Sơn La; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Vừ Sỹ D, con bà Vàng Thị M (đã chết); Vợ Hờ Thị D và 04 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 25/4/2021 cho đến nay. Có mặt.

* Người có quyền lợi liên quan: Chị Hờ Thị D - Sinh năm 1988; Trú tại: Bản T, xã C, huyện Sông Mã, Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 25/4/2021 tổ công tác Công an huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Công, xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã thấy một người đàn ông điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính đối tượng khai là Vừ A K, sinh năm 1990 trú tại bản T, xã C, huyện S, qua kiểm tra phát hiện thu giữ trong túi đựng áo mưa để ở giá trước của xe mô tô 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng (K khai nhận là hồng phiến), tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô, 01 điện thoại di động.

Sau khi bị bắt Vừ A K khai nhận còn cất giấu tại nhà ở bản T, xã C, huyện S 01 túi hồng phiến, cùng ngày tổ công tác Công an huyện Sông Mã tiến hành khám xét tại nơi ở của K thu giữ 01 túi nilon màu xanh bên trong có 162 viên nén màu hồng.

Ngày 26/4/2021 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả:

- 02 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 0,19 gam, trích 01 viên có khối lượng 0,09 gam để giám định ký hiệu K1, vật chứng còn lại 01 viên có tổng khối lượng 0,10 gam ký hiệu P2.

- 162 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 16,24 gam, trích 05 viên có tổng khối lượng 0,51 gam để giám định ký hiệu K2, vật chứng còn lại 157 viên có tổng khối lượng 15,73 gam ký hiệu P2.

Tại Kết luận giám định số 907 ngày 01/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu K1, K2 đều là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là K1=0,09 gam, K2=0,51 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 16,43 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Vừ A K khai nhận: Vào khoảng tháng 3/2021 (K không nhớ ngày) K điều khiển xe mô tô đi vào bản Co Mạ, xã Huổi Một, huyện Sông Mã để tìm mua ma túy sử dụng, khi K đi đến đầu bản Co Mạ thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khoảng 50 tuổi đang đi bộ trên đường, K đi đến gần hỏi và mua được 01 túi hồng phiến với số tiền là 2.000.000đ (K không kiểm tra có bao nhiêu viên), về nhà mỗi ngày K sử dụng 1 đến 2 viên, sáng ngày 25/4/2021 K đi làm nương có mang theo 03 viên, sau khi làm nương xong K sử dụng hết 01 viên còn 02 viên K cất giấu vào trong túi đựng áo mưa và để ở giá để hàng phía trước của xe mô tô, khoảng 11 giờ cùng ngày sau khi đi làm nương về thì điều khiển xe mô tô đi xuống chợ Phiêng đồn, xã Chiềng Sơ để mua bột giặt, khi đi đến khu vực bản Công, xã Chiềng Sơ thì bị Tổ công tác Công an huyện Sông Mã kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ 02 viên hồng phiến, sau khi bị bắt K khai nhận số hồng phiến còn lại đang cất giấu tại nhà, cùng ngày tổ công tác tiến hành khám xét tại nơi ở của K thu giữ 162 viên hồng phiến.

Tại Cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 05/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Vừ A K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vừ A K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo từ 07 năm 06 tháng - 8 năm tù. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng liên quan. Trả lại cho người có quyền lợi liên quan chiếc xe mô tô; Trả lại chiếc điện thoại di động cho bị cáo. Miễn nộp án phí hình sự cho bị cáo. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

Tài liệu trong hồ sơ và tại phiên toà người có quyền lợi liên quan chị Hờ Thị D khai nhận: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 26B2-612.88 bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện tội phạm bị thu giữ là tài sản chung của gia đình mua vào năm 2020, khi bị cáo dùng xe mô tô đi mua ma tuý chị không biết, đề nghị xem xét trả lại chiếc xe cho gia đình chị.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, thống nhất với lời khai nhận trong quá trình điều tra, truy tố. Nhất trí với nội dung Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Khi được nói lời sau bị cáo đề nghị Toà án xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 25/4/2021; Biên bản khám xét lập vào ngày 25/4/2021; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 907 ngày 01/5/2021; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi liên quan và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giấu 16,43 gam ma tuý, loại Methamphetamine của bị cáo Vừ A K đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, không chỉ gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương mà còn ảnh hưởng sức khỏe con người, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân tốt không có tiền án tiền sự.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phát hiện hành vi tàng trữ 02 viên ma tuý bị cáo đã khai báo số ma tuý đang cất giấu tại nhà - Là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương. Về mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự, mức đề nghị như vậy không đảm bảo được tính khoan hồng, nên cần xem xét khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ cận nghèo, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo, xét thấy không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave RXS, biển kiểm soát 26B2-612.88 là chiếc xe bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện tội phạm, xét thấy đây là tài sản chung của gia đình bị cáo, việc bị cáo dùng xe mô tô làm phương tiện thực hiện tội phạm vợ bị cáo (chị Hờ Thị D) không biết, nên cần trả lại cho chị D quản lý, sử dụng.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người phụ nữ dân tộc Mông bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh mở rộng vụ án.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên bị cáo được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Vừ A K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Vừ A K 07 năm 03 tháng tù (bảy năm ba tháng) - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 25/4/2021.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định, và các vật chứng liên quan bao gồm:

+ 0,10 gam Methamphetamine.

+ 15,73 gam Methamphetamine.

+ 01 mảnh nilon màu xanh.

+ 02 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

(các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 046098).

+ 01chiếc túi nilon màu đen.

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động.

- Trả lại cho chị Hờ Thị Dua 01 xe mô tô, biểm kiểm soát 26B2-612.88.

Theo Quyết định chuyển vật chứng 79/QĐ-VKSSM ngày 05/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/7/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn nộp khoản tiền án phí hình sự cho bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/7/2021)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2021/HSST

Số hiệu:111/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;