Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 109/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28/6/2022, tại trụ sở TAND quận N, TP H, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 101/2022/TLST-HS ngày 02/6/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Đình M, sinh năm 1960; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Số 6, Hòa Mã, phường P, quận H, thành phố H. Nơi cư trú: Không có nơi ở ổn định Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 07/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Đình G và bà Phạm M Bị cáo có vợ là Vũ Thị H (đã chết), có 02 con, con lớn sinh năm 1984, con nhỏ sinh năm 1987.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

+ Năm 1979, thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản”, tập trung cải tạo 3 năm theo quyết định số 544 ngày 09/5/1979 của UBND TP H;

+ Năm 1999: UBND TP H có quyết định số 633 đưa vào cơ sở giáo dục Suối Hai, Ba Vì (18 tháng).

+ Năm 2004 và 2011 bị cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 thành phố H.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 09/02/2022, tạm giữ từ ngày 10/02/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H. Số giam: 847B2/24.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị VKSND quận N, thành phố H truy tố về hành vi phạm tội như sau: Nguyễn Đình M là người nghiện chất ma túy Heroin, làm nghề chở khách thuê, sống lang thang không có nơi ở cố định. Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 09/02/2022, M đang đứng chờ khách tại khu vực cổng bệnh viện Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, TP H thì nhận được điện thoại từ số 0346.783.xxx của một nam thanh niên (không xác định được nhân thân, lai lịch - là khách quen của M từ trước) đến số điện thoại của M là 0824.632.xxx, nhờ M mua hộ 500.000đ ma túy “heroine” và bảo M mang đến khu vực ngõ 252 đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2 để cùng sử dụng rồi sẽ thanh toán tiền, do bản thân đang có nhu cầu sử dụng ma túy nên M đồng ý. Sau đó M đi ra khu vực cổng bệnh viện Thanh Nhàn mua được 400.000đ ma túy Heroin của một nam thanh niên không quen. Sau khi mua được ma túy, M cất giấu vào túi quần trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy nhãn hiệu Piaggio Liberty màu trắng mang BKS: 29P1-xxxxx đi đến điểm hẹn. Khoảng 15 giờ cùng ngày, khi M đang đứng trong khu vực ngõ 252 đường Mỹ Đình gọi điện cho nam thanh niên nhờ mua hộ ma túy ra đón thì bị tổ công tác Công an phường Phú Đô kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroin; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 130 màu trắng; 01 xe máy nhãn hiệu PIAGGIO LIBERTY màu trắng BKS 29P1- xxxxx.

Tại bản kết luận giám định số 1113/KLGĐ- PC09 ngày 16/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H, xác định: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nilông thu giữ của Nguyễn Đình M là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,268 gam.

Tại bản cáo trạng số 105/CT-VKSNTL ngày 30/5/2022 của VKSND quận N, thành phố H đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

Đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 đến 21 tháng tù. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 130 và 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đen BKS 29P1-xxxxx. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong một phong bì có niêm phong có chữ ký của Nguyễn Đình M, cán bộ Công an phường Phú Đô 2 và giám định viên. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng số 105 ngày 30/5/2022 của VKSND quận N đã truy tố bị cáo. Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, HĐXX nhận định: Khoảng 15 giờ ngày 09/02/2022, tại ngõ 252 đường Mỹ Đình, thuộc phường Mỹ Đình 2, quận N, TP H, Nguyễn Đình M đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,268 gam heroine mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác công an phường Phú Đô phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Xét cáo trạng truy tố và lời trình bày luận tội của đại diện VKS tại phiên tòa tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh một số loại tội phạm khác; Trực tiếp hủy hoại sức khỏe đối với người sử dụng, gây mất trật tự trị an, làm băng hoại đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm.

Về nhân thân của bị cáo: Năm 1979, thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản”, tập trung cải tạo 3 năm theo quyết định số 544 ngày 09/5/1979 của UBND TP H; Năm 1999: UBND TP H có quyết định số 633 đưa vào cơ sở giáo dục Suối Hai, Ba Vì (18 tháng); Năm 2004 và 2011 bị cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 thành phố H.

Xét cần xử phạt bị cáo một mức án tương ứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo đã gây ra. Cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung: “Phạt tiền” cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của bị cáo.

Liên quan trong vụ án còn có đối tượng bán ma túy cho bị cáo và người nhờ bị cáo mua ma túy để cùng sử dụng (có số điện thoại 0346783xxx) như lời khai của bị cáo. Quá trình điều tra xác định: người đứng tên thuê bao số điện thoại Tẩn Xa I (Sinh ngày 20/8/1998 – HKTT: Bản Má Nghé, Bản Lang, P, tỉnh L – Số CCCD: 01219800xxxx). Chị I khai chị không sử dụng số điện thoại 0346783xxx, không sử dụng CCCD để đăng ký, không biết ai đang sử dụng số điện thoại trên. Do không xác định được nhân thân của người bán và người nhờ M mua ma túy nên CQĐT không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 130 và 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đen BKS 29P1-xxxxx. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 46, 47 BLHS; Điều 106, 136, 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Đình M 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/02/2022. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 130 và 01 xe máy hiệu Honda Wave màu đen BKS 29P1-xxxxx.

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong một phong bì có niêm phong có chữ ký của Nguyễn Đình M, cán bộ Công an phường P và giám định viên.

(Đặc điểm vật chứng đúng như biên bản giao nhận vật chứng số 155 ngày 30/5/2022 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự quận N).

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 109/2022/HS-ST

Số hiệu:109/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;