Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 108/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 108/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 100/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T, sinh ngày 17 tháng 11 năm 1973 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường P, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đường P, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T1 và bà Đỗ Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19-3-2007 bị Tòa án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 04-8-2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 03-02-2015 bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ra trại ngày 13-02-2016; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31-12-2020, chuyển tạm giam từ ngày 09-01-2021 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Ông Trần Lê B Ông Phạm Đức H1

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 31-12-2020, tổ công tác Công an phường Bà Triệu, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà tại đường P, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định phát hiện thấy Phạm Văn T một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 90A1-026.59 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T đã tự giác giao nộp từ trên tay trái cho tổ công tác 01 gói giấy bạc màu trắng. Tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là gói Heroine vừa mua để sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, mời người làm chứng và đưa T về trụ sở công an phường Bà Triệu, thành phố Nam Định lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của T chiếc xe máy biển kiểm soát 90A1-026.59 đã cũ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Phạm Văn T. Tại Bản kết luận giám định số 15/GĐKTHS ngày 06-01-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng, trong 01 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Phạm Văn T, được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine, khối lượng mẫu: 0,138 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân và khai nhận nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ trên như sau: Khoảng 05 giờ 45 phút ngày 31-12-2020, T điều khiển xe máy biển kiểm soát 90A1-026.59 đi từ nhà đến một ngõ nhỏ trên đường Hoàng Hữu Nam, phường Nguyễn Du, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. T đến một căn nhà (không rõ số nhà) mua của một người phụ nữ qua lỗ cửa 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. T cầm gói ma túy vừa mua được trên tay trái rồi điều khiển xe máy đi về nhà để sử dụng. Khi T đi về đến trước cửa số nhà tại đường P, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Phạm Văn T và chiếc xe máy biển kiểm soát 90A1-026.59, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 103/CT-VKSTPNĐ ngày 29-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Phạm Văn T tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy đã thu giữ.

Bị cáo Phạm Văn T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Văn T tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 31-12-2020; Bản kết luận giám định số 15/GĐKTHS ngày 06-01-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 06 giờ ngày 31-12-2020, tại khu vực trước cửa số nhà đường P, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định, bị cáo Phạm Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,138 gam Heroine để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi của bị cáo Phạm Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,138 gam nên bị cáo Phạm Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Phạm Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn T là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Nam Định; bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ ít nên Hội đồng xét xử sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo Phạm Văn T không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [6] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy thu giữ của bị cáo Phạm Văn T là vật cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí:

Bị cáo Phạm Văn T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 02 năm 03 tháng tù (hai năm ba tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 31-12-2020.

2. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 15/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25-3-2021).

3. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Phạm Văn T có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo Phạm Văn T có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 108/2021/HS-ST

Số hiệu:108/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;