Bản án 107/2022/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 107/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 106/2022/TLST-HS ngày 27/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2022/QĐXXST-HS ngày 16/6/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M, sinh ngày 12 tháng 01 năm 1973 tại huyện T, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tổ 12, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K và bà Sái Thị M; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: Ngày 24/4/2020, Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 18 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; nhân thân: Ngày 21/9/2005, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội trộm cắp tài sản (đã xóa án tích); Ngày 07/12/2016, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng (đã hết thời gian để bị coi là xử lý hành chính); bị bắt quả tang ngày 02/3/2022, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/3/2022 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 20 phút ngày 02/3/2022, tổ công tác Công an phường Chiềng Sinh làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 17, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La bắt quả tang Nguyễn Văn M có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có cục bột màu trắng (Sơn khai nhận là ma túy của Sơn cất giữ để sử dụng).

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng. Kết quả cân tịnh số cục bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn M có khối lượng 0,5 gam. Lấy 0,1 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu M1. Còn lại 0,4 gam lưu kho vật chứng, ký hiệu M2.

Tại Kết luận giám định số 434 ngày 04/3/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,1 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,5 gam; loại Heroine.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn M khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 02/3/2022, Nguyễn Văn M đi bộ từ nhà ở tổ 12, phường Quyết Thắng ra quốc lộ 6 thuê xe mô tô ôm của một người đàn ông không quen biết đến khu vực chọ Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy sử dụng. M mua được của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine với số tiền 500.000 đồng. Sơn cất giấu gói ma túy trong túi quần bên trái phía trước đang mặc, đi bộ tìm nơi sử dụng, đến khu vực tổ 2, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La, thì bị tổ công tác bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Đối với người bán ma túy, M khai không biết họ, tuổi và địa chỉ. Ngoài lời khai của M không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số 150/CT-VKSTP ngày 26/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Nguyễn Văn M về tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M từ 22 tháng đến 28 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Không phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Nguyễn Văn M, sinh năm 1973 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 02/3/2022. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc màu vàng; Mẫu lưu kho ký hiệu M2=0,4 gam”.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi. Xét lời khai của bị cáo hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến. Do vậy, có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 02/3/2022, Nguyễn Văn M thực hiện hành vi cất giữ trái phép 0,5 gam Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Nguyễn Văn M về tội danh, điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy của nhà nước, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2005 bị kết án về tội trộm cắp đã được xóa án tích, năm 2016 bị xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã hết thời gian để bị coi là bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị và giáo dục bị cáo, răn đe phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Năm 2020, bị cáo bị kết án về tội phạm ma túy, chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp tái phạm, áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, thu nhập lao động tự do, không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền.

[4] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy vật chứng là chất ma túy và đồ vật liên quan, không còn giá trị sử dụng, gồm : 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc màu vàng; Mẫu lưu kho ký hiệu M2=0,4 gam.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt Nguyễn Văn M 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2022.

Không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, giấy niêm phong số 042604. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Nguyễn Văn M, sinh năm 1973 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 02/3/2022. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc màu vàng; Mẫu lưu kho ký hiệu M2=0,4 gam”.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/6/2022 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 107/2022/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;