Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 107/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 107/2021/HSST NGÀY 22/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2021/HSST, ngày 09-7-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2021/QĐXXST-HS, ngày 9-7-2021; đối với bị cáo:

Lò Văn Tr; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 5-9-2000 tại huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản K, xã CK, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Cà Văn T (đã chết) và bà Lò Thị M; sinh năm: 1973; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 05-4-2021, đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ, 00 phút, ngày 05-4-2021, tại khu vực Bản CM, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Lò Văn Tr có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroine ( Lò Văn Tr khai là Heroine), có khối lượng 0,16 gam, trích rút toàn bộ 0,16 gam ký hiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy. Một mảnh viên nén hình trụ tròn màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (Lò Văn Tr khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,07 gam, trích rút toàn bộ 01 mảnh viên nén hình trụ tròn màu hồng có khối lượng 0,07 gam ký hiệu T2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Kết luận giám định số: 747/KL, ngày 10-4-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,16 gam, mẫu vật gửi giám định ký hiệu T2 là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,16 gam, loại Heroine và 0,07 gam ma túy, loại Methamphetamine”. (Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng là 0,10 gam. Đối với mẫu T2 đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Lò Văn Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 05-4-2021 Lò Văn Tr đón xe buýt từ nhà ở ra xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến ngã ba xã TL thuộc thôn 3, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Lò Văn Tr xuống xe đi bộ đến khu vực bản H, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp một người đàn ông dân tộc Thái (Lò Văn Tr không biết tên, tuổi và địa chỉ cư trú) nhìn giống người nghiện ma túy hỏi và mua được 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 1 ít Heroine và 01 mảnh hồng phiến với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Mua được ma tuý Lò Văn Tr cầm gói ma túy ở tay phải rồi đi bộ đến ngã ba xã TL để bắt xe buýt đi về.

Khi đi đến khu vực bản CM, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Thuận Châu yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Lò Văn Tr về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số: 97/CT-VKS, ngày 09-7-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Lò Văn Tr về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn Tr về điểm, điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Tr phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn Tr mức án từ 18 tháng đến 22 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lò Văn Tr.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,10 gam ma túy, loại Heroine + 01 mảnh nilon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn Tr.

Ý kiến của bị cáo Lò Văn Tr: Nhất trí như bản luận tội của Viện kiểm sát, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Ngày 05-4-2021, Lò Văn Tr đã có hành vi cất giữ trái phép 0,16 gam ma túy, loại Heroine và 0,07 gam ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng hại chất ma túy là 0,23 gam. Mục đích cất giữ để sử dụng cho bản thân.

Lời khai nhận tội của bị cáo Lò Văn Tr tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ.

Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn Tr phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo Lò Văn Tr mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy không lớn, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Lò Văn Tr thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật. Cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội.

Bị cáo Lò Văn Tr đang bị tạm giam, tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có thu nhập. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy, Lò Văn Tr khai mua của người đàn ông dân tộc Thái (Lò Văn Tr không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu), tại Bản H, xã TL, huyện Thuận Châu với giá 100.000đ vào ngày 05-4-2021, do chỉ có lời khai duy nhất của Lò Văn Tr, nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 0,10 gam ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo còn lại sau khi trích rút gửi giám định, là hàng Quốc cấm, Nhà nước cấm lưu hành cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Xét không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí: Bị cáo Lò Văn Tr có Giấy chứng nhân hộ nghèo, miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Tr phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt bị cáo Lò Văn Tr 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam giữ (ngày 05-4-2021).

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tiêu hủy:

+ 01 (một) mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho vào cùng 01 (một) phong bì thư niềm phong, dán kín mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Tr - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 05/4/2021”. Mặt sau phong bì dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 024512 đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu.

+ 01 (một) phong bì niêm phong bằng giấy màu trắng của công an tỉnh Sơn La. Mặt trước có ghi:”CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ: Lò Văn Tr - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 05/4/2021 tại xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi giờ phút, ngày ... tháng... năm 2021. Tại phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 (một) túi nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T1, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,10 gam”. Mặt sau dán giây niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm theo 03 dòng họ tên và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La).

3.Về Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn Tr.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Lò Văn Tr được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 107/2021/HSST

Số hiệu:107/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;