Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 107/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ K, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 107/2021/HS-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 03 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở trụ sở Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 124/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 đối với:

Bị cáo Lê Minh A, sinh năm 1995, Hộ khẩu thường trú: Số 61/2 Bông Sao, Phường M, Quận N, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Ấp V, xã C, thành phố K, tỉnh Tiền Giang; Số CMND: 025366173; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Minh X và bà Nguyễn Thị Kim Z; vợ là Dương Ngọc B; bị cáo có hai con sinh năm 2018 và năm 2021; Tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ: ngày 10/5/2021; Tạm giam: ngày 13/5/2021 đến nay. Bị cáo “Có mặt”.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Dương Ngọc B, sinh năm 1999 (Có mặt);

Nơi cư trú: Số 95/59 L, Phường J, thành phố K, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 09/5/2021, Lê Minh A điện thoại thông qua ứng dụng Facebook cho một người nữ tên Ni (không rõ họ tên, địa chỉ, số điện thoại) nhờ Ni chỉ chỗ để A mua ma túy gồm 01 gói ma túy khây (nửa hộp 5g) và 05 viên thuốc lắc. Ni cho biết tổng số ma túy trên có giá 4.000.000 đồng thì A đồng ý nên Ni hẹn với A đến quán bar “New Club” trên đường Phạm Thanh, Phường J, thành phố K, tỉnh Tiền Giang đi vào khu vực nhà vệ sinh của quán sẽ có người đưa ma túy cho A. Sau đó, A điều khiển xe mô tô biển số 63C1-170.32 đến quán bar “New Club” và đi vào khu vực nhà vệ sinh thì có một người nam lạ mặt (không rõ họ tên, địa chỉ) mặc đồng phục của quán đưa cho A 02 gói nylon màu trắng, trong đó 01 gói chứa ma túy khây màu trắng; 01 gói chứa 05 viên thuốc lắc màu xanh. Sau khi lấy ma túy, A đưa cho người này 4.000.000 triệu đồng, sau đó A để 02 gói ma túy nói trên vào túi quần phía trước bên trái đang mặc trên người và điều khiển xe đến nhà nghỉ “Thiên Trang” để sử dụng ma túy cùng với người bạn tên Chuột (không rõ họ tên, địa chỉ). Khi A vừa đến cổng nhà nghỉ “Thiên Trang” thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang A đang tàng trữ 02 gói ma túy nêu trên.

Theo Kết luận giám định số 80/KLGĐ-PC09 ngày 11/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Các mẫu gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng 4,4761 gam; trong đó: Mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M1 có khối lượng 2,3555 gam loại Ketamine và mẫu khối chất màu xanh không rõ hình dáng ký hiệu M2 có khối lượng 2,1206 gam, loại Methamphetamine và MDMA).

Tại Cáo trạng số 122/CT-VKSMT ngày 27/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố K đã truy tố bị cáo Lê Minh A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên toà, bị cáo Lê Minh A thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh, về hình phạt. Về xử lý vật chứng, bị cáo yêu cầu được nhận lại Iphone 11.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo A, phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Tòa án xử phạt bị cáo A từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Về vật chứng:

- Đối với số ma tuý còn lại sau khi giám định đề nghị tịch thu tiêu huỷ.

- 01 Điện thoại di động Iphone 11 bị cáo sử dụng để mua ma tuý nên đề nghị tịch thu sung ngân sách.

- 01 Điện thoại Masstel, 01 chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe hạng A1 và C1 của bị cáo A nên đề nghị trả lại cho bị cáo A.

- 01 Xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha, biển số 63C1-170.32 và giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 63C1-170.32 tên Dương Ngọc B là tài sản của chị B nên đề nghị trả lại cho chị B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Lúc 21 giờ 30 phút, ngày 09/5/2021, tại cổng nhà nghỉ “Thiên Trang”, bị cáo A bị bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy có tổng khối lượng 4,4761 gam (chiếm tỷ lệ 54,19%); trong đó có 2,3555 gam loại Ketamine (chiếm tỷ lệ 11,78%) và 2,1206 gam loại Methamphetamine và MDMA (chiếm tỷ lệ 42,41%). Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác, nhà nước nghiêm cấm việc tàng trữ trái phép chất ma tuý, tuy nhiên bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện tội phạm. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ do hành vi của bị cáo gây ra nhằm giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Bị cáo có nhân thân tốt. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma tuý còn lại sau khi giám định là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Điện thoại di động Iphone 11 là công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Điện thoại hiệu Masstel, 01 chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe hạng A1 và C1 là tài sản cá nhân của bị cáo A nên trả lại cho bị cáo. Đối với xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha, biển số 63C1-170.32 và giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 63C1-170.32 tên Dương Ngọc B là tài sản của chị B nên trả lại cho chị B [6] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với những nhận định trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Minh A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 của Bộ Luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Minh A 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 10/5/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ một bì thư được niêm phong có ký hiệu vụ số 80 ghi ngày 11/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động Iphone 11 promax màu xanh.

Trả lại cho bị cáo Lê Minh A 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Masstel, 01 (một) chứng minh nhân dân, 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 và 01 (một) giấy phép lái xe ôtô hạng C1 mang tên Lê Minh A.

Trả lại cho chị Dương Ngọc B 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Wave Alpha, biển số 63C1-170.32 và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 63C1-170.32 mang tên Dương Ngọc B.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/11/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố K) 3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016.

Bị cáo Lê Minh A phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Thời hạn kháng cáo Bản án sơ thẩm đối với bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 107/2021/HS-ST

Số hiệu:107/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;