Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 106/2021/HS-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 98/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/QĐXX-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Ngọc T, sinh ngày 04/7/1991; nơi sinh: Tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc T 1 và bà Phạm Thị H; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 132 ngày 04/7/2009 của Công an huyện Vũ Thư, phạt tiền 750.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác. Đã thi hành xong ngày 08/7/2009;

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 123 ngày 02/4/2013 của Công an huyện Vũ Thư, phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Đã thi hành xong ngày 24/6/2013;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 27/5/2021, tạm giam từ ngày 02/6/2021 đến nay; trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Ông Trần Ngọc T1, sinh năm 1956, (có mặt);

Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

- Ông Lê Xuân T, sinh năm 1962, (vắng mặt);

Nơi cư trú: Số nhà 10, tổ 15, phường P, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

- Anh Trần Ngọc A, sinh năm 1975, (vắng mặt);

Nơi cư trú: Số nhà 143, tổ 17, phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 27/5/2021, tại khu vực ngõ 02, đường Hoàng Công Chất, tổ 04, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình, phát hiện bị cáo Trần Ngọc T có biểu hiện liên quan đến hoạt động ma tuý nên yêu cầu bị cáo dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Lê Xuân T và ông Trần Ngọc A, bị cáo đã tự giác đưa từ lòng bàn tay trái của bị cáo ra 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là Hêrôin mục đích đang đi tìm nơi vắng vẻ để bản thân sử dụng, bị cáo còn khai nguồn gốc của gói ma tuý trên là do trước đó khoảng 10 giờ cùng ngày bị cáo mua của 01 người nam giới khoảng 20 tuổi, không quen biết tại khu vực ngõ 02, đường Hoàng Công Chất, tổ 04, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình với giá 200.000 đồng. Tổ công tác mở gói nhỏ kiểm tra thì thấy bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục nên niêm phong lại rồi yêu cầu bị cáo và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để làm việc. Tại trụ sở công an phường, tổ công tác đã thu được 01 điện thoại di động hiệu Vsmart, màu xanh tại túi quần bên trái của bị cáo đang mặc; kiểm tra xe mô tô hiệu SANDA, biển kiểm soát 22K5 - 6556 do bị cáo điều khiển nhưng không phát hiện được tài sản, đồ vật gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 184/KLGĐMT - PC09 ngày 28/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1500 gam (không phẩy một nghìn năm trăm gam).

Tại cơ quan điều tra những người chứng kiến là ông Lê Xuân T và anh Trần Ngọc A đều khai như sau: Khoảng 11 giờ ngày 27/5/2021, tại khu vực ngõ 02, đường Hoàng Công Chất, tổ 04, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, có một người nam giới khai với tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình tên là Trần Ngọc T, sinh năm 1991, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. Sau đó người này tự giác đưa từ lòng bàn tay trái của mình ra 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ giao nộp cho tổ công tác, người này khai đó là Hêrôin vừa mua được để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành niêm phong gói nhỏ rồi yêu cầu bị cáo và mời ông T, anh Ngọc A về trụ sở Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình để làm việc. Tại đây, kiểm tra người bị cáo, tổ công tác đã thu giữ tại túi quần bên trái của Trần Ngọc T đang mặc 01 điện thoại di động hiệu Vsmart, màu xanh. Kiểm tra xe mô tô hiệu SANDA, biển kiểm soát 22K5 - 6556 do Trần Ngọc T điều khiển không phát hiện, thu giữ gì.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Trần Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số: 103/CT - VKSTPTB ngày 19/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trần Ngọc T về “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên luận tội: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án nên khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng pháp luật. Kiểm sát viên phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Ngọc T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 27/5/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị xử lý vật chứng bằng hình thức: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh. Chấp nhận việc cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tô hiệu SANDA, biển kiểm soát 22K5-6556 cho ông Trần Ngọc Toàn.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Trần Ngọc T xác định cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác do Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên và Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đó là các tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh cho hành vi phạm tội của bị cáo. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên bị cáo không khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng.

[2]. Căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với Cáo trạng đã truy tố, đồng thời còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản kiểm tra và quản lý phương tiện; Bản Kết luận giám định số 184/KLGĐMT - PC09 ngày 28/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của người chứng kiến: Ông Lê Xuân T, anh Trần Ngọc A; cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 27/5/2021, tại khu vực ngõ 02, đường Hoàng Công Chất, tổ 04, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, bị cáo Trần Ngọc T có hành vi tàng trữ 01 túi ma tuý, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1500 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình bắt quả tang. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, lẽ ra bị cáo phải nhận thức rõ c tác hại do ma túy gây ra cũng như phải hiểu được quy định của pháp luật về việc nghiêm cấm đối với mọi hành vi liên quan đến ma túy, song để đạt được nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo đã cố ý vi phạm pháp luật. Xét về lỗi và khối lượng chất ma tuý do bị cáo tàng trữ thì thấy phù hợp với dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 - Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) ...; c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Như vậy, hành vi của bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy là nguy hiểm cho xã hội, vì hành vi đó đã cố ý xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy, đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe của con người cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Xét nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội là để thoả mãn nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo không tuân thủ pháp luật, vì vậy cần xét xử bị cáo nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Bị cáo có nhân thân xấu: Các năm 2009, 2013 đã bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc và hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác nên cần xem xét khi quyết định hình phạt. Song cũng xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình nên khi lượng hình bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là phạt tù có thời hạn - buộc bị cáo cách ly ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo hiệu quả của việc cải tạo, giáo dục cũng như phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo là người nghiện ma túy, lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của 01 người nam giới không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý người bán ma tuý cho bị cáo là phù hợp.

[7]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy loại Heroin thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định, là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về tài sản khác: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh, xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà bị cáo có nguyện vọng được nhận lại do đó cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. Đối với 01 xe mô tô hiệu SANDA, biển kiểm soát 22K5 - 6556, tài liệu điều tra thể hiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Trần Ngọc Toàn (bố đẻ của bị cáo), ngày 27/5/2021 ông Toàn không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông Toàn nên không phải giải quyết tại bản án này.

[9]. Về án phí: Bị cáo Trần Ngọc T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Ngọc T có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38; khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 27/5/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy loại Heroin, thu của bị cáo Trần Ngọc T còn lại sau giám định và bao gói.

4. Tài sản khác: Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc T 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh nhưng giao cho cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Vật chứng có đặc điểm như ghi tại: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 27/5/2021, Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/7/2021 giữa Công an thành phố Thái Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình.

5. Án phí: Buộc bị cáo Trần Ngọc T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Án tuyên công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 31/8/2021

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HS-ST

Số hiệu:106/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;