TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 106/2021/HSST NGÀY 22/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 104/2021/TLST- ST ngày 27 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2021/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 9 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Lò Văn T, tên gọi khác: Không, sinh năm 1993, tại: huyện T, tỉnh Điện Biên; Trú tại: Bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không. Trình độ văn hoá: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lò Văn M (Đã chết), con bà Lò Thị T; Bị cáo chưa có vợ và con;
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 06/5/2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.
2. Lò Văn T1, tên gọi khác: Không, sinh năm 1997, tại: huyện T, tỉnh Điện Biên; Trú tại: Bản H, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không. Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lò Văn Th, con bà Lò Thị Ng; Bị cáo có vợ là Lò Thị H, bị cáo có 01 con sinh năm 2020;
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 06/5/2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.
3. Bạc Cầm T2, tên gọi khác: Không, sinh năm 1999, tại: huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; Trú tại: Bản Ch, xã Ch, huyện T, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không. Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Bạc Cầm C, con bà Bạc Thị L; Bị cáo chưa có vợ và con; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 06/5/2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Quàng Văn Đ, sinh năm 1984, trú tại: Bản T, xã Ch, huyện T, tỉnh Điện Biên; Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T: Luật sư Đỗ Văn Thuận là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T1: Ông Tòng Văn Minh là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Bạc Cầm T: Ông Cầm Trọng Thủy là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 05/5/2021, Lò Văn T rủ Lò Văn T1 góp tiền để mua ma túy, T1 đồng ý. Do không có đủ tiền nên Lò Văn T hỏi vay tiền của Bạc Cầm T2. Qua trao đổi, Bạc Cầm T2 biết Lò Văn T và Lò Văn T1 vay tiền để đi mua ma túy, nên Bạc Cầm T2 hỏi T việc T2 muốn góp tiền để cùng mua ma túy, T đồng ý. Lò Văn T góp 300.000 đồng, Lò Văn T1 góp 200.000 đồng và Bạc Cầm T2 góp 140.000 đồng (tổng cộng là 640.000 đồng). Sau đó T, T1 và T2 thuê xe ô tô taxi BKS: 26A-093.49 do anh Nguyễn Hải N, sinh năm: 1998, trú tại: Tiểu khu 6, thị trấn Mộc Châu,huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La chở cả ba người đến bản Lũng Xá, xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ. Khi đi đến đầu bản Lũng Xá thì anh Nam dừng xe ô tô, T và Thu xuống xe đi bộ vào trong bản Lũng Xá thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi, không biết tên và địa chỉ. Qua trao đổi T và T1 mua được của người đàn ông dân tộc Mông đó 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, T và T1 lấymột ít ra sử dụng, số Heroine còn lại T gói lại như cũ, cầm ở lòng bàn tay trái rồi cùng T1 đi ra xe ô tô taxi đi về. Đến 21 giờ 30 phút ngày 05/5/2021, anh Nam điều khiển xe ô tô taxi BKS: 26A-093.49 chở T, T1 và T2 đi về đến bản Bó Nhàng 2, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ thì bị Tổ công tác công an huyện Vân Hồ yêu cầu dừng xe kiểm tra. T đã vứt gói Heroine xuống sàn xe ô tô. Tổ công tác T2 hành kiểm tra, phát hiện trên sàn xe ô tô, khu vực giữa ghế lái và hộp đựng đồ 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng chất bột màu trắng. T, Thu và T2 khai nhận là Heroine của ba người mua về để sử dụng chung. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, dẫn giải 03 đối tượng trên về trụ sở Công an huyện Vân Hồ để điều tra làm rõ. Tạm giữ của Lò Văn T1: 600.000 đồng và 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A73; Tạm giữ của: Lò Văn T: 20.000 đồng và 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A5S Tạm giữ của Bạc Cầm T2: 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu VS Mart.
Ngày 06/5/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ đã phối hợp với VKSND huyện Vân Hồ và phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La đã T2 hành cân tịnh xác định khối lượng gói chất bột mà trắng thu giữ của các đối tượng được 0,54 gam; Lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu “T”. Mẫu giám định bàn giao cho Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại ma túy.
Tại kết luận giám định số 944 ngày 07/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu giám định ký hiệu T là ma túy, loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,54 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,54 gam loại Heroine. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định kỳ hiệu T, Hoàn lại mẫu gửi giám định, có khối lượng là 0,37 gam”.
Quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Hải N, sinh năm: 1998, trú tại:Tiểu khu 6, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La là lái xe taxi, không biết việc các bị cáo tàng trữ ma túy và không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo .
Đối với 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu VS Mart bên trong lắp 01 sim thu giữ của Bạc Cầm T2. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Quàng Văn Đ, sinh năm: 1984, trú tại: Bản T, xã Ch, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Anh Đường cho T2 mượn chiếc điện thoại trên để liên lạc và không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị can. Ngày 20/7/2021, cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ đã trả chiếc điện thoại trên cho anh Đ.
Tại bản Cáo trạng số: 73/CT-VKS ngày 25/8/2021 của Viện kiểm sát nhân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2 về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2, phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2 mỗi bị cáo từ 18 đến 21 tháng tù.
Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu để tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,37 gam Heroine + vỏ gói niêm phong gửi giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu; 03 phong bì bên trong đựng 03 que thử ma túy đối Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2.
Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 600.000 đồng tạm giữ của bị cáo Lò Văn T1.
Trả lại cho Lò Văn T 20.000 đồng và 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A5S. Trả lại cho Lò Văn T1: 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPOA73.
Chấp nhận Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Quàng Văn Đưởng 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VS Mart.
Các bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng Kinh tế - Xã hội đặc biệt khóa khăn, tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị HĐXX xem xét, miễm án phí cho các bị cáo.
Người bào chữa cho các bị cáo đều nhất trí với đề nghị của Viện kiểm sát đề nghị HĐXX xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế. Đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS, xử phạt bị cáo mức án dưới mức đề nghị của Viện kiểm sát.
Các bị cáo không có tranh luận gì, nhất trí với bài bào chữa của trợ giúp viên pháp lý, không có ý kiến bổ sung.
Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm luận tội cho rằng, mức hình phạt Viện kiểm sát đưa ra đối với các bị cáo là phù hợp với T chất, mức độ của hành vi mà các bị cáo đã gây ra.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Ngày 05/5/2021, Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2 bị phát hiện bắt quả tang tàng trữ 0,54 gam Heroine mục đích sử dụng chung. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã có đủ căn cứ cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[2]. T chất hành vi và vai trò của các bị cáo: Bị cáo Lò Văn T là người khởi xướng rủ Lò Văn T1 và Bạc Cầm T2 phạm tội do vậy cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo Lò Văn T. Bị cáo Lò Văn T1 và Bạc Cầm T2 góp tiền cùng Lò Văn T với vai trò là đồng phạm gúp sức, thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của các bị cáo xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, nhất là tội phạm về ma túy, gây nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
[3] Xét nhân thân bị cáo: Các bị cáo có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của ma tuý, nhưng vẫn coi thường pháp luật, cố tình phạm tội. Cần có mức án nghiêm khắc đối với từng bị cáo nhằm dăn đe, giáo dục phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vừng Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo nghiện ma túy, không có tài sản có giá trị, không có thu nhập, không áp dụng phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[6] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên tham gia tố tụng tuân theo và chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T2 hành tố tụng, người T2 hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,37 gam Heroine + vỏ gói niêm phong gửi giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu; 03 phong bì bên trong đựng 03 que thử ma túy đối Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2, là những vật bị cấm lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.
Đối với số tiền 20.000 đồng và 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A5S tạm giữ của Lò Văn T; 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A73 tạm giữ của Lò Văn T1 do không liên quan đến việc phạm tội trả lại cho các bị cáo Lò Văn T và Lò Văn T1.
Đối với số tiền 600.000 đồng là tiền các bị cáo chuẩn bị để trả tiền thuê phương tiện để thực hiện việc phạm tội do vậy tịch thu sung quỹ Nhà Nước.
Đối với chiếc 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VS Mart, bị cáo Bạc Cầm T2 mượn của Quàng Văn Đ để liên lạc công việc. Bị cáo không dùng điện thoại vào việc phạm tội. Ngày 20/7/2021, cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ đã trả chiếc điện thoại trên cho anh Đ là có căn cứ được chấp nhận.
[8] Về nguồn gốc chất ma túy: Các bị cáo khai nhận mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ. Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, không xử lý trong vụ án này.
Đối với anh Nguyễn Hải Nam, là lái xe taxi, các bị cáo nói trở các bị cáo đi đòi nợ, việc các bị cáo tàng trữ ma túy anh Nam không biết, do vậy không liên quan đến việc phạm tội của các bị cáo.
Các bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng Kinh tế - Xã hội đặc biệt khóa khăn, tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễm án phí cho các bị cáo
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2 phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt: Bị cáo Lò Văn T 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được T từ ngày 05/5/2021.
Xử phạt: Bị cáo Lò Văn T1 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được T từ ngày 05/5/2021.
Xử phạt: Bị cáo Bạc Cầm T2 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được T từ ngày 05/5/2021.
Không phạt bổ sung đối với các bị cáo.
3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu để tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,37 gam Heroine + vỏ gói niêm phong gửi giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu; 03 phong bì bên trong đựng 03 que thử ma túy đối Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2.
Trả lại cho Lò Văn T 20.000 đồng và 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A5S. Trả lại cho Lò Văn T1: 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A73.
Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 600.000 đồng tạm giữ của bị cáo Lò Văn T1.
Theo biên bản giao nhận vật chứng số 102 ngày 07/9/2021 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vân Hồ.
Chấp nhận Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Quàng Văn Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VS Mart.
4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễm án phí cho các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn T1, Bạc Cầm T2.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2021/HSST
Số hiệu: | 106/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về