TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 104/2024/HS-ST NGÀY 10/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 4 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 113/2024/TLST-HS ngày 26/3/2024 - Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2024/QĐXXST- HS ngày 28/3/2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Vàng A Đ - Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1993; Nơi cư trú: Bản C, xã H, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ giáo dục phổ thông: 02/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ, đảng phái: Không; Con Vàng A C, con bà Sộng Thị D; Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 29/6/2021 bị Toà án nhân dân huyện Sông Mã, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng.
Nhân thân: Ngày 03/11/2017 bị Toà án nhân dân huyện Sông Mã, xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Bị tạm giữ, giam từ ngày 18/12/2023 cho đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ ngày 18/12/2023 Tổ công tác Công an xã Huổi Một, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ kiểm tra, test thử ma tuý đối với các đối tượng quản lý sau cai tại bản Cang Cói, xã Huổi Một; Khi đến nhà Vàng A Đ, Tổ công tác đã tiến hành làm việc, đồng thời vận động Đ đem giao nộp các tài liệu, đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội nên Đ đã tự lấy từ dưới đệm ra một gói nilon màu hồng, bên trong chứa 02 viên nén màu hồng (Đông khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng A Đ, thu giữ và niêm phong vật chứng.
Ngày 19/12/2023 tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, Hội đồng bóc mở niêm phong đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng và trích mẫu giám định, kết quả: 02 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,20 gam đã trích 01 viên có khối lượng 0,10 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu Đ1, vật chứng còn lại là 01 viên có khối lượng 0,10 gam ký hiệu Đ2.
Tại bản kết luận giám định số 101/KL ngày 22/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: "Mẫu ký hiệu Đ1 gửi giám định là ma tuý; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,20 gam; loại Methamphetamine".
Quá trình điều tra Vàng A Đ khai nhận: Khoảng 06 giờ ngày 18/12/2023 Đ đem theo số tiền 60.000 đồng rồi đi bộ từ nhà lên bản Túp Phạ, xã Huổi Một để tìm mua ma tuý. Khi lên đến bản Túp Phạ, Đ gặp một người đàn ông dân tộc Mông, Đ hỏi và mua được 04 viên Hồng phiến với số tiền 60.000 đồng. Mua được ma tuý, Đông đem về nhà rồi lấy ra 02 viên sử dụng, sử dụng ma tuý xong Đ gói hai viên còn lại rồi giấu dưới đệm ngủ. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày khi Đ đang ở nhà thì Tổ công tác Công an xã Huổi Một đến test thử ma tuý, sau khi được vận động Đ đã lấy ra gói ma tuý giao nộp. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Cáo trạng số 58/CT-VKSSM ngày 26 tháng 3 năm 2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Vàng A Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đối với người đàn ông mà Đ khai nhận bán ma túy cho Đ, quá trình điều tra do Đ không biết tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã không có căn cứ để mở rộng điều tra.
Tại phiên toà kiểm sát viên thực hiện quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo từ 02 năm - 02 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại và các vật chứng liên quan.
Miễn án phí cho bị cáo. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.
Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận, khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan, Người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tình tiết định tội: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 18/12/2023; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 101/KL ngày 22/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các chứng cứ khác trong hồ sơ.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/12/2023 Vàng A Đ đã có hành vi cất giấu 0,20 gam ma tuý, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai cho bị cáo.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, mà còn ảnh hưởng sức khỏe con người, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo có 01 tiền sự, có nhân thân xấu đã bị đưa ra xét xử về ma tuý. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ, nhân thân của bị cáo để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.
[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án: Số ma tuý còn lại và các vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết được đối tượng cụ thể, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã không có căn cứ để mở rộng điều tra làm rõ là đảm bảo quy định.
[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hộ gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí.
[9] Về đề nghị của Kiểm sát viên: Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và các vấn đề liên quan khác là phù hợp, nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Về Điều luật áp dụng, Tội danh và Hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Vàng A Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Vàng A Đ 02 (hai) năm tù - Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/12/2023.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 0,10 gam Methamphetamine, 01 túi nilon màu trắng (túi chứa 0,10 gam Methamphetamine ), 01 mảnh nilon màu hồng, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã được bóc mở.
(các vật chứng được đựng trong một phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 0021412).
Theo Quyết định chuyển vật chứng số 60/QĐ-VKSSM ngày 26/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên Bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/4/2024 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn nộp khoản tiền án phí hình sự cho bị cáo.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 10/4/2024)./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2024/HS-ST
Số hiệu: | 104/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về