Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 104/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến từ điểm cầu trung tâm tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa đến điểm cầu tại Nhà tạm giử Công an huyện Đức Hòa đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 19/5/2002, tại Bạc Liêu; Nơi cư trú: Ấp X, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N và bà Lâm Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2022 cho đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Ngô Thanh T, sinh năm 1999. Địa chỉ: Ấp N, xã G, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. (vắng mặt)

2/ Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

- Người làm chứng: Nguyễn Đức T, sinh năm 1999. Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 19/5/2022, Nguyễn Văn T cùng người bạn tên T và 02 người bạn của T (không xác định nhân thân, lai lịch) đi đến quán karaoke King Dubai thuộc ấp 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An để hát. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 20/5/2022, T và nhóm bạn ra về, khi về T có cho T 01 bịch nylon rãnh khép viền đỏ bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy dạng Ketamine và 01 bịch nylon rãnh khép viền đỏ bên trong có chứa 06 mảnh viên nén màu xanh nghi là thuốc lắc để T sử dụng. T nhận chất ma túy T cho Đ trong ví da rồi cất giấu ví da vào túi quần đang mặc và đi về nhà trọ của T ở ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

Đến khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/5/2022, Nguyễn Văn T đem theo ví da có cất giấu chất ma túy bên trong đi ăn cùng Ngô Thanh T, sinh năm 1999, hộ khẩu thường trú: ấp N, xã N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng, tại quán vỉa hè không có biển hiệu thuộc ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. Sau đó, T nhờ T điều khiển xe mô tô biển số 83X1-119.S chở đi công việc riêng, khi T điều khiển xe mô tô chở T đi đến đoạn đường gần khu công nghiệp Liên Minh thì bị lực lượng Công an tuần tra phát hiện bắt quả tang T cất giấu chất ma túy trong người nên tạm giữ người và vật chứng vụ án.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm: 01 bịch nylon rãnh khép viền đỏ bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy Ketamine; 01 gói nylon rãnh khép viền đỏ bên trong có chứa 06 mảnh viên nén màu xanh; 01 cái ví da màu nâu; 01 xe mô tô biển số 83X1-119.S.

Tại Kết luận giám định số 447 ngày 27/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận:

“1. Chất bột màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon rãnh khép viền đỏ được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,2311 gam, loại: Ketamine.

2. 06 (sáu) mảnh vỡ viên nén màu xanh đựng trong 01 (một) túi nylon có rãnh khép viền đỏ được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 1,1372 gam, loại MDMA … Hoàn lại đối tượng gửi giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1351 gam (chất bột màu trắng); 0,6950 gam (mảnh vỡ viên nén màu xanh); tất cả mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao đựng mẫu giám định được đóng gói niêm phong số 447./.”

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan, không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại về kết luận giám định, đồng thời không khiếu nại đối với Cơ quan T hành tố tụng và người có thẩm quyền T hành tố tụng.

Tại bản cáo trạng số 100/CT-VKSĐH ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tham gia phiên tòa vẫn giữ y quan điểm như Cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật, đồng thời phân tích đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức hình phạt từ 02 năm 6 tháng tù đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2022; áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với xe mô tô biển số 83X1-119.S, là tài sản của ông Nguyễn Văn Đ (bạn của Ngô Thanh T), Đ mua xe mô tô trên vào tháng 02 năm 2022. Ngày 20/5/2022, Đ có cho T mượn xe để làm phương tiện đi lại. Đến ngày 21/5/2022 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra tạm giữ trong vụ án trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe này cho Đ theo biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu vào ngày 12/8/2022 - Đối với mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1351 gam (chất bột màu trắng); 0,6950 gam (mảnh vỡ viên nén màu xanh); tất cả mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao đựng mẫu giám định được đóng gói niêm phong số 447 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An và 01 cái ví da màu nâu bị cáo không có yêu cầu nhận lại: đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về biện pháp tư pháp: Bị cáo Nguyễn Văn T không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị không đề cập, xem xét.

Đối với ông Ngô Thanh T là người chở Nguyễn Văn T khi bị bắt quả tang, do ông T không biết việc T tàng trữ chất ma túy trên người nên hành vi của T không cấu T tội phạm có liên quan.

Đối với người thanh niên tên T cho T chất ma túy, do không xác định nhân thân lai lịch, chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo T nên không có căn cứ xử lý.

Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự Tòa án vẫn T hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung:

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 21 tháng 5 năm 2022 cùng với bản kết luận giám định số 447/KT-KTHS ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Long An và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:

Bị cáo Nguyễn Văn T là người nghiện ma túy, khoảng 20 giờ 45 phút ngày 21 tháng 5 năm 2022, tại ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 01 bịch nylon rãnh khép viền đỏ, bên trong có khối lượng: 0,2311 gam, loại Ketamine và 01 bịch nylon có rãnh khép viền đỏ bên trong đựng 06 mảnh vỡ viên nén màu xanh có khối lượng:

1,1372 gam, loại MDMA nhằm mục đích sử dụng.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tổn hại sức khỏe con người, làm suy thoái nòi giống, gây mất trật tự xã hội.

Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hậu quả nghiêm T của ma túy đối với xã hội và bản thân bị cáo. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, bị nghiêm cấm vận chuyển, mua bán, tàng trữ dưới bất kỳ hình thức nào nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đủ yếu tố cấu T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Nguyễn Văn T theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

Hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, có mức án phù hợp, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng trừng phạt, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo T khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, được chính quyền địa phương xác nhận. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì hành vi phạm tội bị cáo T còn có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo T có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

[5]. Về biện pháp tư pháp: Bị cáo Nguyễn Văn T không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên không đề cập, xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với xe mô tô biển số 83X1-119.S, là tài sản của ông Nguyễn Văn Đ (bạn của Ngô Thanh T), Đ mua xe mô tô trên vào tháng 02 năm 2022. Ngày 20/5/2022, Đ có cho T mượn xe để làm phương tiện đi lại. Đến ngày 21/5/2022 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra tạm giữ trong vụ án trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe này cho Đ theo biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu vào ngày 12/8/2022 là phù hợp nên không xem xét.

- Đối với mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1351 gam (chất bột màu trắng); 0,6950 gam (mảnh vỡ viên nén màu xanh) được đóng gói niêm phong số 447 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An là chất cấm và 01 cái ví da màu nâu bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

[7]. Đối với Ngô Thanh T là người chở Nguyễn Văn T khi bị bắt quả tang, do T không biết việc T tàng trữ chất ma túy trên người, hành vi của T không cấu T tội phạm có liên quan nên không đề cập, xem xét.

Đối với người thanh niên tên T cho bị cáo T chất ma túy, do không xác định nhân thân lai lịch, chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo T, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý sau nên không đề cập xem xét.

[8]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2022.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án (14/9/2022) để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1351 gam (chất bột màu trắng); 0,6950 gam (mảnh vỡ viên nén màu xanh) được đóng gói niêm phong số 447 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An.

+ 01 cái ví da màu nâu.

Tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 107 ngày 24/8/2022.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

4. Án xử sơ thẩm công khai. Căn cứ Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 104/2022/HS-ST

Số hiệu:104/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;