Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 103/2021/HS-ST NGÀY 03/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03/8/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2021/TLST-HS ngày 17/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2021/QĐXXST-HS ngày 20/7/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức T, sinh năm 1993 tại xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: Thôn N, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông Nguyễn Đức T và con bà Nguyễn Thị Đ; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Ông Đặng Văn H, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Thôn H2, xã H, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/12/2020, T đang ở khu vực thôn N, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang thì T có nhu cầu sử dụng ma túy tổng hợp nên T đã thuê xe ôm của một người đàn ông (T khai không quen biết tên tuổi, địa chỉ của người này) chở ra khu vực cống chui đường gom cao tốc Hà Nội- Bắc Giang thuộc thôn N, xã Q, huyện V để mua ma túy sử dụng. Khi gần đến khu vực cống chui, T xuống xe và bảo người xe ôm đứng chờ, còn T đi bộ khoảng 100m đến chỗ một người đàn ông khoảng 35 tuổi, cao khoảng 1,70m, dáng người hơi béo (T khai không rõ tên, tuổi, địa chỉ của người này) để hỏi mua ma túy. T bảo người đàn ông này bán cho 3.000.000 đồng tiền ma túy tổng hợp và được người này đồng ý bán; người này cầm 3.000.000 đồng rồi đưa lại cho T 01 vỏ bao thuốc lá nhiều màu nhãn hiệu “555”. T kiểm tra bên trong có 01 túi ni lon màu trắng đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong có 49 viên nén màu hồng đỏ và 01 viên nén màu xanh; 01 túi ni lon màu trắng đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Tất cả đều là chất ma túy tổng hợp dạng ngựa, đá. T cầm toàn bộ số ma tuý trên đút vào túi áo khoác ngoài bên phải đang mặc rồi quay lại chỗ người xe ôm. T bảo người đàn ông lái xe ôm chở đến khu vực ngã tư Đ thuộc thôn H2, xã H, huyện V, tỉnh Bắc Giang để tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi đến khu vực ngã tư Đ, T xuống xe rồi một mình đi bộ vào đến gần quán nước của anh Thân Văn X còn người lái xe ôm rời khỏi hiện trường; cùng lúc thì bị lực lượng Công an huyện Việt Yên phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại túi áo khoác ngoài bên phải đang mặc của Nguyễn Đức T: 01 bao thuốc lá nhiều màu nhãn hiệu 555, bên trong chứa 01 túi ni lon màu trắng, đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong có 49 viên nén màu hồng đỏ và 01 viên nén màu xanh; 01 túi ni lon màu trắng đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (tất cả đều nghi là ma tuý tổng hợp dạng ngựa và đá). Tất cả được niêm phong vào phong bì dán kín ký hiệu “QT”.

Quá trình bắt quả tang, Nguyễn Đức T còn tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động có số Imei 358181119281505, đã qua sử dụng.

Cùng ngày 23/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức T tại thôn N, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Kết quả không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 23/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang giám định đối với vật chứng thu giữ được niêm phong trong phong bì có ký hiệu “QT”.

Tại Kết luận giám định số 1917/KL-KTHS ngày 28/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định:

Trong 01 (một) vỏ bao thuốc lá có nhiều màu nhãn hiệu “555”:

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 9,843 gam, loại Methamphetamine.

- 49 (bốn mươi chín) viên nén màu hồng đỏ và 01 (một) viên nén màu xanh đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 4,981 gam, loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông khoảng 35 tuổi, cao khoảng 1,70m, dáng người hơi béo (T khai không rõ tên, tuổi, địa chỉ của người này) đã bán ma tuý cho T ngày 23/12/2020. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an xã Q, huyện V xác định tại khu vực cống chui đường gom cao tốc Hà Nội- Bắc Giang thuộc thôn N, xã Q, huyện V không có đối tượng nào có đặc điểm như T khai có biểu hiện mua bán chất ma túy nên Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đến người đàn ông này ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông lái xe ôm chở T đi mua ma túy ngày 23/12/2020. Quá trình điều tra, T khai không quen biết tên tuổi, địa chỉ của người này nên nên Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đến người đàn ông này ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 15/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố Nguyễn Đức T ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức T thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án, bị cáo thừa nhận số lượng chất ma túy bị thu giữ khi bị bắt là của bị cáo do bị cáo mua để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 06 năm tù đến 06 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên là hợp pháp, không có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức T thừa nhận đã mua chất ma túy để sử dụng bị thu giữ. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng của vụ án, kết luận giám định và lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, các tài liệu khác thu thập được, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ ngày 23/12/2020, tại quán nước của anh Thân Văn X- sinh năm 1977 ở khu vực ngã tư Đ thuộc thôn H2, xã Hi, huyện V, tỉnh Bắc Giang; Tổ công tác Công an huyện Việt Yên phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Đức T đang có hành vi tàng trữ trái phép 14,824 gam chất ma túy Methamphetamine, với mục đích để sử dụng.

[3] Bị cáo Nguyễn Đức T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo mua chất ma túy mục đích để sử dụng với số lượng thu được là 14,824 gam chất ma tuý Methamphetamine nên Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết án bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, vi phạm vào điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ chất ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những tệ nạn xã hội cần bài trừ bởi nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp tài sản, giết người..., là nguyên nhân dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng rất xấu tới sức khỏe con người, đời sống xã hội, do vậy cần xử lý nghiêm bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt vì chưa bị kết án, chưa bị xử lý hành chính lần nào.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đức T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Nguyễn Đức T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tuy với số lượng ma túy lớn nhưng không có động cơ thu lời bất chính, bị cáo không có tài sản đáng kể, thuộc diện hộ cận nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Số lượng chất ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, số Imei: 35818119281505 là tài sản của bị cáo Tuyển không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 06 (Sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: ngày 23/12/2020.

[2] Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ 01 phong bì ký hiệu "QT" được niêm phong lại bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, bên trong có 14,445 gam chất ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu sau giám định.

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức T 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, số Imei: 35818119281505.

[3] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Đức T.

[4] Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 103/2021/HS-ST

Số hiệu:103/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;