Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 10/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 15/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15/02/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2023/HSST ngày 06/01/2023 theo Quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số: 08/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2023 đối với Bị cáo:

Lò Văn T - Sinh năm 2002; HKTT: bản N, xã C, huyện M, tỉnh S (T là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn); Dân tộc: Thái; Trình độ văn hóa: 5/12, Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Lò Văn H và bà: Lò Thị S; Anh, chị, em ruột: có 02 người, bị cáo là thứ nhất; Vợ, Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa có; T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bào chữa cho bị cáo T: Bà Vương Thị Thanh N, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H (vắng mặt có bản luận cứ bào chữa cho bị cáo);

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Văn B (tức H), sinh năm 1988;

Địa chỉ: bản K, xã C, huyện Q, tỉnh N(vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lò Văn T ở bản N, xã C, huyện M, tỉnh S là đối tượng nghiện các chất ma tuý (loại Heroine) hiện đang thuê phòng trọ tại thôn 13, xã N, huyện V, tỉnh H. Khoảng 19 giờ ngày 26/10/2022, T đi bộ từ phòng trọ đến khu vực đường gần UBND xã N, huyện V hỏi mua 200.000đ ma túy của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) với mục đích để sử dụng thì được người này bán cho 02 gói ma túy, loại Heroine. Sau đó, T cầm 02 gói ma túy trên cất vào túi áo rồi đi vào một cửa hàng thuốc mua 01 xi lanh sau đó đi về phòng trọ. Đến khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày, anh Lê Văn B ở bản K, xã C, huyện Q, tỉnh N ở cùng khu trọ với T có nhờ T điều khiển chiếc xe mô tô biển số 18Z7-81xx chở bạn là anh Kha Văn C ở bản C 1, xã B T, huyện K, tỉnh N ra khu vực đường quốc lộ 5A để anh C đi xe ô tô khách về quê thì T đồng ý. Đến khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô trên chở anh C đến khu vực cầu dân sinh Quốc lộ 5A thuộc địa phận thôn N, xã T, huyện V thì bị Cơ quan CSĐT- Công an huyện V phối hợp cùng Phòng Cảnh sát cơ động và phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh H kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của T: 02 gói giấy bạc bên trong chứa chất màu trắng dạng cục và bột (Niêm phong ký hiệu M1); 01 xi lanh gắn kim tiêm chưa qua sử dụng và 01 chiếc xe mô tô biển số 18Z7- 81xx. Kết quả khám xét khẩn cấp tại phòng trọ của T không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì. Kết quả test ma túy đối với Lò Văn T và Kha Văn C đều cho kết quả dương tính với chất ma túy, loại Heroin.

Ngày 27/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện V ra Quyết định trưng cầu giám định đối với chất trong niêm phong đã thu giữ của T. Ngày 27/10/2022 và ngày 30/10/2022, phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H ban hành bản Thông báo kết luận sơ bộ và Bản kết luận giám định số: 233/MT-PC09, kết luận: chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ký hiệu M1 có tổng khối lượng là 0,125gam; là ma túy, là loại Heroine.

Quá trình điều tra xác định: Đối với Kha Văn C có kết quả test ma túy dương tính với chất ma túy, loại Heroin. C khai chiều ngày 26/10/2022 C mua của một người đàn ông không rõ tên, địa chỉa và đã sử dụng ma túy tại phòng trọ do C chưa có tiền án, tiền sự gì liên quan đến ma túy nên ngày 14/12/2022 Công an huyện V đã xử phạt hành chính đối với C. Cơ quan CSĐT-Công an huyện V cũng chưa làm rõ được lai lịch, địa chỉ cụ thể của đối tượng đã bán ma túy cho T, C nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với vật chứng của vụ án là: 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật gửi giám định và 01 xi lanh chưa qua sử dụng đã thu giữ của T, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng để chờ xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với chiếc xe mô tô biển số 18Z7- 86xx xác định là xe mô tô của anh Lê Văn B. Anh B không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T nên ngày 28/10/2022 Cơ quan điều tra đã trả lại anh B chiếc xe trên.

Anh B đã nhận lại tài sản và tự nguyện không có yêu cầu gì thêm.

Bị cáo Lò Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nêu ở trên.

Tại bản cáo trạng số 09/CT - VKS ngày 03/01/2023 của VKSND huyện V truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố là đúng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện V đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo Lò Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 1 năm 6 tháng đến 1 năm 9 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/10/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại mẫu vật giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H; 01 xi lanh gắn kim tiêm chưa qua sử dụng Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Tư bà Vương Thị Thanh N có ý kiến: Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và tình tiết của vụ án. Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, tuy nhiên đối với bị cáo T là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xét xử bị cáo mức hình phạt thấp nhất, giúp bị cáo cải tạo tốt, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội và căn cứ vào điểm đ Điều 12; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định đồng thời phù hợp với vật chứng thu giữ của bị cáo cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 20 giờ 50 phút ngày 26/10/2022 tại khu vực cầu dân sinh Quốc lộ 5A thuộc địa phận thôn N, xã T, huyện V, tỉnh H, Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 02 gói ma túy là loại Heroine có tổng khối lượng 0,125gam để sử dụng thì bị Cơ quan CSĐT-Công an huyện V phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng.

[3]. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của chất ma túy và xuất phát từ việc coi thường pháp luật nên đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 02 gói ma túy là loại Heroine có tổng khối lượng 0,125gam để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng. Do đó VKSND huyện V truy tố bị cáo Lò Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý được luật hình sự bảo vệ, gây ra hậu quả xấu cho xã hội, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Do đó việc xử lý bị cáo bằng một bản án thật nghiêm khắc là cần thiết.

[5]. Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Sau khi cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, sống có ích cho xã hội, đồng thời cũng có tác dụng dăn đe giáo dục phòng ngừa tội phạm chung.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo nghề nghiệp không ổn định, mắc nghiện ma túy và không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại trong niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh H; 01 xi lanh gắn kim tiêm chưa qua sử dụng là vật chứng liên quan đến việc phạm tội nên tịch thu cho tiêu hủy.

[9]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Bị cáo T là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/10/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại mẫu vật giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H; 01 xi lanh gắn kim tiêm chưa qua sử dụng.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với anh B vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lâm - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;