Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 101/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QL, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 101/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 89/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Đình K (tên gọi khác: Không), sinh ngày 04/10/1981; nơi sinh: Tại huyện QL, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 11, xã QV, huyện QL, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; đoàn thể: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đình T, sinh năm 1956 và bà Lê Thị D, sinh năm 1951; có vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1987 và có 04 người con: Lớn nhất, sinh năm 2008, nhỏ nhất, sinh năm 2014;

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 28/02/2020, K bị Tòa án nhân dân huyện QL áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc; chấp hành xong ngày 14/10/2021.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/5/2022 đến nay, “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đình Đ, sinh năm 1994, “ có mặt”.

Nơi cư trú: Thôn 20, xã QV, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Hữu K, sinh năm 1960, “ vắng mặt”.

Nơi cư trú: Thôn 10, xã QV, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 24/5/2022, Phan Đình K sử dụng số thuê bao 0358xxx638 gọi đến số thuê bao 0373267xxx của một người đàn ông tên Am (trú tại xã QV, huyện QL) và hỏi xin ma túy để sử dụng, Am đồng ý và hẹn K đến khu vực đường liên thôn thuộc xóm 18, xã QV, huyện QL, tỉnh Nghệ An để lấy ma túy. K điều khiển xe mô tô BKS 37L2- 1xx.20 đến điểm hẹn gặp Am đang đứng chờ ở đó. Hai bên gặp nhau, Am nói với K đến vị trí cạnh cột điện ven đường lấy gói thuốc lá nhãn hiệu “SEA BIRD”, bên trong có ma túy và cất dấu vào túi quần phía trước bên trái rồi điều khiển xe mô tô về nhà. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi K đang trên đường về nhà, cách vị trí lấy ma túy khoảng 500m, thuộc khu vực đường liên thôn, thuộc xóm 18, xã QV, huyện QL, tỉnh Nghệ An thì bị Tổ công tác Công an xã QV, huyện QL phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi quần phía trước bên trái K 01 gói thuốc lá nhãn hiệu“SEA BIRD” bên trong có 17 điếu thuốc và 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy heroine); 01 gói giấy màu trắng chứa 02 viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến); 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, màu đen, BKS 37L2- 1xx.20 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A54 màu xanh đen, đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện QL thành lập Hội đồng tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Phan Đình K có khối lượng là 0,195g và 02 viên nén màu hồng thu giữ của Phan Đình K có tổng khối lượng là 0,180g. Sau đó, Cơ quan Điều tra lấy 0,125g chất bột màu trắng và 0,100g viên nén màu hồng đi giám định (ký hiệu M1, M2).

Tại bản Kết luận giám định số 604/KL– KTHS (Đ2- MT) ngày 29/5/2022 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu từ M2) thu giữ của Phan Đình K gửi tới giám định là ma túy (Heroine), có khối lượng là 0,195g (không phẩy một trăm chín mươi lăm gam) và mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1) thu giữ của Phan Đình K gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng là 0,180g (không phẩy một trăm tám mươi gam).

* Về vật chứng vụ án:

- 01 phong bì thư Bưu điện dán kín, chứa vỏ gói niêm phong cũ, vỏ gói giấy, vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu “SEA BIRD” bên trong có 17 điếu thuốc; 0,080g viên nén màu hồng và 0,070g chất bột màu trắng còn lại sau khi lấy mẫu trưng cầu giám định;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54 màu xanh đen, số IMEI1:862942052640331, đã qua sử dụng;

- 01 xe mô tô BKS 37L2- 1xx.20, đã qua sử dụng.

Tất cả các vật chứng trên hiện đã được chuyển đến Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện QL bảo quản, chờ xử lý.

Bản Cáo trạng số 106/CT-VKS-QL ngày 30/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện QL truy tố bị cáo Phan Đình K, về tội:"Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện QL vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Phan Đình K từ 18 - 24 tháng tù.

* Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đang bị tạm giam, không có tài sản gì nên không phạt tiền bổ sung.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư Bưu điện dán kín, chứa vỏ gói niêm phong cũ, vỏ gói giấy, vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu “SEA BIRD” bên trong có 17 điếu thuốc;

0,080g viên nén màu hồng và 0,070g chất bột màu trắng còn lại sau khi lấy mẫu trưng cầu giám định;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A54 màu xanh đen, số IMEI1:862942052640331, đã qua sử dụng của bị cáo;

- Trả lại cho anh Nguyễn Đình Đ 01 xe mô tô BKS 37L2- 1xx.20, màu đen, đã qua sử dụng.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phan Đình K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo Phan Đình K: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện QL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện QL và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Phan Đình K khai nhận: Vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 24/5/2022, tại đoạn đường thuộc thôn 18, xã QV, huyện QL, Tổ công tác Công an xã QV, huyện QL bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 0,195 gam ma túy (Heroine) và 0,180 gam ma túy (Methamphetamine) với mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai có tại hồ sơ; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp biên bản khám xét do Công an xã QV, huyện QL lập ngày 24/5/2022; phù hợp Kết luận Giám định số 694/KL– KTHS (Đ2- MT) ngày 29/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An.

Vì vậy, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Phan Đình K đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, đúng như Bản Cáo trạng truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bố đẻ bị cáo là Thương binh, có công với cách mạng, được nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm, đã được Nhà nước độc quyền quản lý. Bị cáo biết được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do nghiện ma túy mà tàng trữ để sử dụng, thể hiện sự coi thường pháp luật. Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho sức khỏe cộng đồng; ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt tù, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đang bị tạm giam, không có tài sản gì nên không phạt tiền bổ sung.

[5] Theo lời khai của K, người đàn ông tên Am (qua xác minh là Lê Văn Am, sinh năm 1963, trú tại xóm 18, xã QV, huyện QL, tỉnh Nghệ An) là người đã cho K ma túy để sử dụng. Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra đã tiến hành xác minh. Tuy nhiên, hiện tại Am không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được. Đồng thời Cơ quan Điều tra đã gửi công văn tới Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel để xác minh thông tin số điện thoại 0373267xxx nhưng chưa có kết quả. Do đó chưa đủ căn cứ để xử lý đối với Am nên Cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định pháp luật.

[6] Đối với Nguyễn Đình Đ là chủ sở hữu chiếc xe máy nhãn hiệu SYM, màu đen, BKS 37L2- 1xx.20 và cho K mượn nhưng không biết K sử dụng đi xin ma túy nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[7] Về vật chứng: Xét thấy, chất ma túy là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư Bưu điện dán kín, chứa vỏ gói niêm phong cũ, vỏ gói giấy, vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu “SEA BIRD” bên trong có 17 điếu thuốc; 0,080g viên nén màu hồng và 0,070g chất bột màu trắng còn lại sau khi lấy mẫu trưng cầu giám định;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A54 màu xanh đen, số IMEI1:862942052640331 của bị cáo, là công cụ phương tiện phạm tội;

- Trả lại cho anh Nguyễn Đình Đ 01 xe mô tô BKS 37L2- 1xx.20, đã qua sử dụng, vì không liên quan đến việc phạm tội.

[8] Về án phí: Bị cáo Phan Đình K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[[ Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phan Đình K 18 (mười tám) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 24/5/2022).

2. Về vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư Bưu điện dán kín, chứa vỏ gói niêm phong cũ; vỏ gói giấy; vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu “SEA BIRD”, bên trong có 17 điếu thuốc; 0,080g viên nén màu hồng và 0,070g chất bột màu trắng;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A54 màu xanh đen, số IMEI1:862942052640331;

- Trả lại cho anh Nguyễn Đình Đ 01 xe mô tô BKS 37L2- 1xx.20.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng được lập vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 30/6/2022, giữa Công an huyện QL với Chi cục Thi hành án dân sự huyện QL, tỉnh Nghệ An).

3.Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phan Đình K phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 101/2022/HS-ST

Số hiệu:101/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;