Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SL, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 100/2023/HS-ST NGÀY 27/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố SL, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Quàng Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 25 tháng 02 năm 1996 tại thành phố SL, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tổ 14, phường C, thành phố SL, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Quàng Văn S (sinh năm 1966) và con bà Quàng Thị C (sinh năm 1967); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/03/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lèo Thị V, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tổ 14, phường C, thành phố SL, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 02/03/2023, tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế ma túy Công an thành phố SL làm nhiệm vụ tại khu vực bản D, xã CN, thành phố SL phát hiện bắt quả tang Quàng Văn T, sinh năm 1996, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói giấy màu vàng, bên trong có chứa 06 viên nén đồng dạng màu hồng, T khai là ma túy Hồng phiến, cất giữ để sử dụng.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX 110, sơn màu đỏ đen, biển kiểm soát 26B1-975.xx, số khung: RLHJA3118EY080361, số máy: JA31E- 0154805, xe đã qua sử dụng.

Ngày 03/03/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố SL tiến hành bóc mở niêm phong, tách bì, cân tịnh và xác định khối lượng vật chứng. Kết quả: 06 viên nén đồng dạng màu hồng trong gói giấy màu vàng có tổng khối lượng là 0,60 gam, lấy 0,30 gam làm mẫu giám định ký hiệu V. Còn lại 0,30 gam ký hiệu H niêm phong làm mẫu lưu kho.

Tại Kết luận giám định số: 523/KL-KTHS ngày 06/03/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu V là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,30 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,60 gam; loại Methamphetamine, mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn T khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 22 giờ 00 phút ngày 02/03/2023, Quàng Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX 110, sơn màu đỏ đen, biển kiểm soát 26B1-975.xx đi từ nhà tại tổ 14, phường C, thành phố SL, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy. Khi đi đến khu vực cổng chào bản D, xã CN, thành phố SL, tỉnh Sơn La, T gặp và hỏi mua được của một người nam giới một gói giấy màu vàng bên trong có chứa 06 (sáu) viên nén màu hồng đồng dạng với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua, T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Khi đi qua Nhà văn hóa bản D, xã CN, thành phố SL, tỉnh Sơn La bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Đối với nguồn gốc 0,60 gam Methamphetamine: Bị cáo khai ngày 02/03/2023, bị cáo mua được của một người nam giới có dáng người gầy, cao khoảng 1m70, T không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực cổng chào bản D, xã CN, thành phố SL, tỉnh Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố SL không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

Quá trình điều tra xác định, chiếc xe Honda, số loại Wave RSX 110, sơn màu đỏ đen, biển kiểm soát 26B1-975.xx do T sử dụng để mua ma túy là tài sản của chị Lèo Thị V, sinh năm 1990, trú tại Tổ 14, phường C, thành phố SL, tỉnh Sơn La (chị dâu của Quàng Văn T). Ngày 08/5/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố SL đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chị Lèo Thị V chiếc xe trên.

Tại bản cáo trạng số: 199/CT-VKSTP ngày 24/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội.

Tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL giữ quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Quàng Văn T từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi tư) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu vàng và 0,30 (không phẩy ba mươi) gam Methamphetamine ký hiệu H.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến gì đối đáp với đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố SL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Lèo Thị V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy, tại giai đoạn điều tra chị V đã có lời khai đầy đủ, trong đơn xin xét xử vắng mặt, chị V khẳng định không thay đổi lời khai so với lời khai tại cơ quan điều tra, chị V đã nhận lại chiếc xe máy và không có yêu cầu gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng trên theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 02/03/2023, Quàng Văn T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,60 gam Methamphetamine, hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng: Lời khai nhận tội của bị cáo; biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 30 phút ngày 02/03/2023 tại bản D, xã CN, thành phố SL, tỉnh Sơn La đối với Quàng Văn T cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy màu vàng, bên trong có chứa 06 (sáu) viên nén đồng dạng màu hồng, T khai là ma túy Hồng phiến; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 523/KL-KTHS ngày 06/03/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Trương Hoàng D, sinh năm 1995, trú tại tổ 03, phường T, thành phố SL, tỉnh Sơn La, là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang.

Từ các căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 0,60 gam, loại Methamphetamine, đã vi phạm vào tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.

Hành vi vi phạm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bản thân bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/03/2023 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[9] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua ma túy của của một người nam giới, không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực bản cổng chào bản D, xã CN, thành phố SL, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan chức năng đã tiến hành điều tra xác minh, nhưng không thu thập được tài liệu chứng cứ gì, do đó buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự toàn bộ đối với số ma túy bị thu giữ.

[10] Vật chứng của vụ án:

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX 110, sơn màu đỏ đen, biển kiểm soát 26B1-975.xx, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định, đây là tài sản của chị Lèo Thị V, sinh năm 1990, trú tại Tổ 14, phường C, thành phố SL, tỉnh Sơn La (chị dâu của Quàng Văn T). Ngày 02/03/2023, chị V cho T mượn chiếc xe mô tô trên, chị V không biết T mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố SL đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chị Lèo Thị V chiếc xe trên là có căn cứ đúng theo quy định.

Đối với 0,30 gam Methamphetamine ký hiệu H hiện đang lưu kho vật chứng, là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh giấy màu vàng, là vật chứng không có giá trị sử dụng, cần tịch thu và tiêu hủy.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Quàng Văn T 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (03/03/2023).

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu vàng và 0,30 (không phẩy ba mươi) gam Methamphetamine ký hiệu H (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 083869 của Công an thành phố SL).

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/6/2023 giữa Công an thành phố SL và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố SL, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Quàng Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/6/2023), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2023/HS-ST

Số hiệu:100/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;