TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 100/2021/HSST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 98/2021/TLST-HS ngày 02/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2021/QĐXXST-HS ngày 09/7/2021 đối với bị cáo:
Lương Mạnh T, tên gọi khác: Không; sinh năm 1979 tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tổ 11, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Thanh B, sinh năm 1950 và bà: Hoàng Thị V, sinh năm 1956; bị cáo có vợ là Lù Thị T và 01 con, sinh năm; Không tiền án, có 01 tiền sự: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện số 45/QĐ-TA ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố S, thời hạn 18 tháng; nhân thân: Tại Bản án số 62/2002/HSST ngày 20/8/2002 bị TAND Thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản; Tại Bản án số 112/2003/HSST ngày 10/12/2003 bị TAND Thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại Bản án số 39/2006/HSST ngày 06/4/2006 bị TAND Thị xã S, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại Bản án số 34/2009/HSST ngày 31/3/2009 bị TAND Thành phố S, tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2021 đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 00 phút ngày 12/3/2021 Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản N, xã T, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang Lương Mạnh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tang vật thu giữ gồm: Một gói nilon màu xanh bên trong chứa một ít cục màu trắng nghi là Heroine (T khai nhận là Heroine) và 20 (Hai mươi) viên nén hình trụ màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (T khai nhận là ma túy tổng hợp).
Hồi 17 giờ 00 phút cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh 20 viên nén hình trụ màu hồng và một ít bột cục màu trắng thu giữ của Lương Mạnh T. Cân tịnh số bột cục màu trắng xác định được khối lượng là: 0,25 gam (Không phẩy hai lăm gam) trích rút toàn bộ 0,25 gam ký hiệu T1 gửi giám định chất và loại ma túy. Cân tịnh 20 viên nén màu hồng được tổng khối lượng 2,01 gam (Hai phẩy không một gam) trích rút toàn bộ 2,01 gam ký hiệu T2 gửi giám định chất và loại ma túy.
Tại Kết luận giám định số: 597/KL ngày 16/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,25 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,01 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,25 gam, loại Heroine và 2,01gam, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra Lương Mạnh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 12/3/2021 Lương Mạnh T một mình bắt xe buýt từ nhà tại phường Q, thành phố S lên xã T, huyện T để tìm mua ma túy sử dụng. Khi T đi đến khu vực bản N, xã T, huyện T thì T xuống xe đi bộ được một đoạn thì gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Thái (T không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) một gói ma túy bên trong chứa một ít Heroine và 20 viên ma túy tổng hợp được gói bằng nilon màu xanh với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi mua được ma túy thì T cầm gói ma túy ở bên tay trái rồi đi bộ ra đường quốc lộ 6A tìm điểm đón xe buýt để chờ đón xe buýt đi về nhà. Khi T đang đi bộ ở khu vực bản N, xã T, huyện T thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu yêu cầu kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra đã phát hiện và thu giữ gói ma túy mà T đang cất giấu. Tổ công tác đã tạm giữ tang vật, dẫn giải Lương Mạnh T về Ủy ban nhân dân xã T lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 77/CT- VKS ngày 07 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Lương Mạnh T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lương Mạnh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Lương Mạnh T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Mạnh T từ 03 đến 04 năm tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,15 gam chất ma túy, loại Heroine; 1,17 gam chất ma túy, loại Methamphetamine; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định đã bóc mở.
Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo Lương Mạnh T thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Ngày 12/3/2021 bị cáo Lương Mạnh T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,25 gam, loại Heroine và 2,01gam, loại Methamphetamine trong người, tổng số ma túy bị cáo cất giữ trái phép là 2,26 gam, với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản N, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La.
Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 12/3/2021 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; luận giám định số: 597/KL ngày 16/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.
Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lương Mạnh T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này” khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe đối với bị cáo, đảm bảo biện pháp giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Có 01 tiền sự: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện số 45/QĐ-TA ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố S, thời hạn 18 tháng; nhân thân: Tại Bản án số 62/2002/HSST ngày 20/8/2002 bị TAND Thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản; Tại Bản án số 112/2003/HSST ngày 10/12/2003 bị TAND Thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại Bản án số 39/2006/HSST ngày 06/4/2006 bị TAND Thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại Bản án số 34/2009/HSST ngày 31/3/2009 bị TAND Thành phố S, tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Lương Mạnh T khai mua của người đàn ông dân tộc Thái ở khu vực bản N, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La vào ngày 12/3/2021. Quá trình điều tra xác định T không biết họ tên và địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ mở rộng điều tra.
[6] Vật chứng vụ án:
Đối với 0,15 gam chất ma túy, loại Heroine; 1,17 gam chất ma túy, loại Methamphetamine; còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định đã bóc mở là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo Lương Mạnh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lương Mạnh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lương Mạnh T 34 (ba mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 12/3/2021).
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lương Mạnh T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 12/3/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số:
023713 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, bên trong có: 01 mảnh nilon màu xanh + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Một phong bì niêm phong mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lương Mạnh T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 12/3/2021. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở niêm phong + 02 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu T1 và chất bột màu hồng thuộc mẫu ký hiệu T2, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng T1 = 0,15 gam, T2 = 1,17 gam. Mặt sau dán giấy niêm phong Công an tỉnh Sơn La, có số seri 051965 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/6/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lương Mạnh T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Bị cáo Lương Mạnh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2021/HSST
Số hiệu: | 100/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về