Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 100/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Ngọc D, sinh năm 1993, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số C26, ấp MH 2, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Kim L và bà Phạm Thị Tuyết H (chết); có vợ và 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 27-11-2019, tạm giam ngày 03-12-2019 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 10 phút ngày 27/11/2019, Tổ tuần tra - Công an phường Tân Tạo A đến trước nhà số 1138, đường QL 1A, Khu phố 1, phường TTA, quận BT thì nhìn thấy Trần Ngọc D đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong túi xách màu vàng mà D đeo trên vai có 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng. Lúc này, D cho biết đó là ma túy loại Heroin để sử dụng nên đưa D cùng vật chứng đến về Công an phường xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, D khai do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực cầu Xáng, thuộc huyện HM mua số ma túy này của người thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 2.000.000 đồng và khi đang mang theo bên người để dành sử dụng thì bị kiểm tra bắt giữ.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Ngọc D khai nhận, do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực cầu Xáng, thuộc huyện HM mua 02 gói ma túy loại Heroin của người thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 2.000.000 đồng và khi đang mang theo để dành sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về hàm lượng ma túy đã giám định và giải quyết vật chứng.

Bản cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 18 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Ngọc D ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã nêu: Bị cáo Trần Ngọc D đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,1658g, loại Heroin để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 06 năm đến 07 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động hiệu Nokia và chiếc điện thoại di động OPPO; tịch thu tiêu hủy gói niêm phong chứa ma túy đã giám định và cái túi xách.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Theo qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 00 giờ 10 phút ngày 27/11/2019, tại trước nhà số 1138, đường QL, Khu phố 1, phường TTA, quận BT. Bị cáo Trần Ngọc D đã có hành vi cất giữ 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an thành phố Hồ Chí Minh thì, “Bột màu trắng trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Trần Ngọc D, Trần Văn T (Điều tra viên), Lê Văn X (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Tân Tạo A, quận Bình Tân” gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,1658g, loại Heroin”. Do đó, bị cáo đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định hàm lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với người thanh niên bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.

[3] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nên cần phải áp dụng một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0907793460 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, số thuê bao 0X575051 của bị cáo, do có dùng liên lạc mua ma túy nên tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 gói niêm phong, bên trong chứa ma túy, đã giám định; bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Ngọc D, Điều tra viên Trần Văn T, hình dấu Công an phường Tân Tạo A, quận Bình Tân và chữ ký của người chứng kiến Lê Văn X là chất kích thích, do Nhà nước cấm sử dụng; 01 cái túi xách màu vàng của bị cáo dùng cất giấu ma túy nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[6] Bị cáo Trần Ngọc D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc D phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Trần Ngọc D 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27-11-2019.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0907793460 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, số thuê bao 0X575051. Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói niêm phong, bên trong chứa ma túy, đã giám định; bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Ngọc D, Điều tra viên Trần Văn T, hình dấu Công an phường Tân Tạo A, quận Bình Tân và chữ ký của người chứng kiến Lê Văn X; 01 cái túi xách màu vàng.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số NK20/100TAM, ngày 05/3/2020)

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Trần Ngọc D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Ngọc D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2020/HS-ST

Số hiệu:100/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;