Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 100/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 112/2020/TLST – HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2020/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Quốc C. (tên gọi khác: Dũng), sinh ngày 27 tháng 7 năm 1981 tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú:129F/123/9A Đường Đ, Phường T, Quận 4, TP. Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Lượm ve chai; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn P., sinh năm 1956 và bà Trương Thị Tuyết N., sinh năm 1957; có vợ tên là Vũ Hoàng A., sinh năm 1984 và có 03 con chung (lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2015); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 12/7/2020, “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 23 giờ 10 phút ngày 11/7/2020, tổ tuần tra Công an Quận 4 phối hợp với Công an Phường N, Quận 4 tuần tra đến trước số 290 Đường H, Phường N, Quận 4, phát hiện Vũ Quốc C. điều khiển xe mô tô loại Wave màu xanh, biển số: 59C1 – 807.12, có biểu hiện nghi vấn, nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện bên trong túi áo khoác phía trước bên phải đang mặc của C. có 01 (một) gói thuốc lá Jet bên trong có 05 (năm) gói nylon chứa tinh thể không màu (nghi là ma túy) nên đưa C. cùng tang vật về trụ sở Công an phường để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Vũ Quốc C. khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 11/7/2020, C. điều khiển xe mô tô loại Wave màu xanh, biển số: 59C1 – 807.12 đến khu vực hẻm 148 Đường N, Phường T, Quận 4 để tìm mua ma túy đá về sử dụng.

Khi đến hẻm 148 Đường N, Phường T, Quận 4 thì C. mua 6 (sáu) gói ma túy với giá là 380.000 (ba trăm tám mươi nghìn) đồng, C. bỏ ma túy vào bao thuốc lá Jet rồi cất vào bên trong túi áo khoác phía trước bên phải đang mặc của C.. C. chạy xe qua khu vực chợ Xóm Chiếu tìm nơi để sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng hết 01 (một) gói ma túy còn 05 (năm) gói ma túy, C. vẫn để trong bao thuốc lá Jet cất trong túi áo khoác bên phải đang mặc và chạy xe đi tìm vợ (do vợ đã bỏ nhà đi trước đó mấy ngày). Đến khoảng 23 giờ 10 phút cùng ngày, khi C. chạy xe đến trước nhà số 290 Đường H, Phường N, Quận 4 thì bị Công an kiểm tra bắt giữ cùng tang vật đưa về trụ sở Công an như trên.

Vũ Quốc C. khai khi đến hẻm 148 Đường N, Phường T, Quận 4 thì có nhờ bé gái khoảng 06 (sáu) tuổi mua ma túy giùm và cho bé gái khoảng 5.000 (năm nghìn) đến 6.000 (sáu nghìn) đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã xác minh nhưng không xác định được người mua giùm ma túy cho C.. Do đó, Cơ quan điều tra Công an Quận 4 không có cơ sở để kết luận C. "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội" theo điểm đ khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại bản kết luận giám định số 1187/KLGĐ – H ngày 20/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 05 (năm) gói nylon (để trong 01 gói thuốc lá hiệu Jet) được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Vũ Quốc C. và hình dấu Công an Phường N, Quận 4 đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,4338g (không phẩy bốn ba ba tám) gam, loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 99/CT – VKS ngày 26/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Vũ Quốc C. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Vũ Quốc C. có lời khai thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Kết luận điều tra và Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Vũ Quốc C. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Vũ Quốc C. từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù. Về xử lý vật chứng: Tịch thu gói ma túy của Vũ Quốc C. còn lại sau giám định.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an Quận 4, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Quốc C. không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các biên bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Vũ Quốc C. thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như kết luận giám định có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 23 giờ 10 phút ngày 11/7/2020, tại trước nhà số 290 Đường H, Phường N, Quận 4, Vũ Quốc C. bị bắt quả tang tàng trữ 0,4338g (không phẩy bốn ba ba tám) gam ma túy loại Methamphetamine, nh m mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo Vũ Quốc C. đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 đối với hành vi của bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo biết r hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng cần có mức hình phạt nghiêm khắc để xử phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo mới tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên khi lượng hình có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử quyết định phạt tiền bổ sung đối với bị cáo là 10.000.000 (mười triệu) đồng để thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. [4] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Vũ Quốc C. và hình dấu Công an Phường N, Quận 4, là vật chứng ma túy thu giữ của Vũ Quốc C., còn lại sau giám định. Xét, ma túy là chất độc hại không sử dụng được và cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy ;

- 01 (một) xe mô tô mô tô hiệu Honda Wave, biển số 59C1 – 807.12, số máy : JA39E0132076, số khung : RLHJA3908HY132037. Qua xác minh, chiếc xe trên do Khíp Ngọc G. (chị họ C.), hộ khẩu thường trú: 166/107B Đường B, Phường Q, Quận 4 đứng tên chủ sở hữu. Bị cáo C. cho biết ngày 11/7/2020, bị cáo qua nhà ông Pha (chồng chị G.) và hỏi mượn chiếc xe trên để đi tìm vợ. Việc bị cáo C. dùng xe trên để đi mua ma túy và tàng trữ ma túy vợ chồng bà G. không biết. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã trao trả chiếc xe trên cho bà Khíp Ngọc G. nên không có gì giải quyết.

[5] Về án phí HSST: Bị cáo Vũ Quốc C. phải nộp án phí hình sự sơ thẩm số tiền là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Vũ Quốc C. (Dũng) 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 7 năm 2020.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Phạt tiền bị cáo Vũ Quốc C. 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

+ Tịch thu tiêu hủy 01(một) gói niêm phong ghi vụ số 1187 bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 18 ngày 01/12/2020 giữa Công an Quận 4 và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4).

- Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí Tòa án năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Vũ Quốc C. phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

- Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2020/HS-ST

Số hiệu:100/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;