Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LANG CHÁNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 08/2022/HSST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 05/2022/HSST ngày 29/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HS ngày 09/6/2022, đối với các bị cáo:

1. Lương Văn M, sinh ngày 21/02/2003; tại xã GT, huyện LC, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn Kh1, xã GT, huyện LC, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn S, sinh năm 1975 và bà Quách Thị L, sinh năm 1975; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 17/12/2021 đến ngày 23/12/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam; có mặt.

2. Lương Văn Tr, sinh năm 2000; tại xã GT, huyện LC, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn Kh2, xã GT, huyện LC, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn V, sinh năm 1974 và bà Lê Thị T, sinh năm 1976; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 17/12/2021 đến ngày 23/12/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam; có mặt.

Người làm chứng:

Ông Lương Văn V, sinh năm 1974 Nơi cư trú: Thôn Kh2, xã GT, huyện LC, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

Người chứng kiến:

Anh Lương Văn Ng, sinh năm 1978 Nơi cư trú: Thôn Kh1, xã GT, huyện LC, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 21 giờ 35 phút, ngày 16/12/2021, tổ công tác Công an huyện Lang Chánh phát hiện, thu giữ của Lương Văn M và Lương Văn Tr 07 viên nén màu hồng; 01 bao thuốc lá màu vàng bên trong có chứa các điều thuốc lá đầu lọc, 01 lượng chất bột màu trắng nghi là ma túy và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với M và Tr về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Theo lời khai của M, Tr và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập xác định được: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 16/12/2021, Lương Văn Tr sang nhà Lương Văn M chơi, trong lúc ngồi chơi M nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên đã rủ Tr đến thị trấn Ngọc Lặc tìm mua ma túy. Tr đồng ý nên đã góp 500.000 đồng, M góp 600.000 đồng để đi mua ma túy. Sau đó, cả hai điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave S, biển kiểm soát 36Z4-0346 đi thị trấn Ngọc Lặc. Khi đến khu vực cầu làng Ngòn, thị trấn Ngọc Lặc, Tr và M nhìn thấy một người đàn ông đang đi bộ, Tr bảo M dừng xe lại và xuống xe hỏi mua ma túy, người đàn ông này đồng ý bán cho Tr 10 viên ma túy tổng hợp (thường gọi là hồng phiến) và 01 lượng ma túy nhỏ, loại Heroine gói trong mảnh nilon màu xanh hết 1.100.000 đồng.

Sau khi mua được ma túy, M và Tr điều khiển xe mô tô đi về đến đoạn đường vắng thuộc thôn Kh2, xã GT, cả hai dừng xe và cùng sử dụng 03 viên ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy là 01 ống tre được M nhặt ở bên đường. Sau khi sử dụng ma túy xong, Tr cất 02 viên ma túy được gói trong mảnh giấy bạc vào túi quần trước, phía bên trái mà Tr đang mặc, còn 05 viên ma túy tổng hợp gói trong mảnh giấy bạc và 01 lượng ma túy loại Heroine Tr bỏ vào 01 bao thuốc lá, rồi cả hai điều khiển xe đi đến đoạn đường bê tổng thuộc thôn Kh1, xã GT ngồi chơi. Tại đây, Tr cất giấu bao thuốc lá có chứa ma túy ở gốc cây gần chỗ dựng xe mô tô, trong lúc đang ngồi chơi thì cả hai bị tổ công tác Công an huyện Lang Chánh bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tr và M khai nhận toàn bộ số ma túy trên các bị cáo mua về nhằm mục đích sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác.

Tại Bản Kết luận giám định số 61/PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

“- 02 viên nén màu hồng của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,195g (không phẩy một chín năm gam), loại: Methamphetamine.

- 05 viên nén màu hồng đựng trong gói giấy dạng giấy bạc của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,487g (không phẩy bốn tám bảy gam), loại: Methamphetamine.

- Chất bột vón cục màu trắng đựng trong bọc nilon màu xanh của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,257g (không phẩy hai năm bảy gam), loại: Heroine.

- Chất bột màu trắng bám dính trên miệng ống tre của phong bì niêm phong ký hiệu M3 gửi giám định là ma túy, loại: Methaphetamine, không xác định được khối lượng (trọng lượng)”.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, đựng toàn bộ bao gói mở niêm phong của phong bì M1, M2, M3 và 01 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,096g của phong bì niêm phong ký hiệu M1; bao thuốc lá màu vàng và các điếu thuốc đầu lọc; 04 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,390g; 0,242g chất bột vón cục màu trắng, của phong bì niêm phong ký hiệu M2; 01 ống tre của phong bì niêm phong ký hiệu M3. Hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lang Chánh theo Quyết định chuyển vật chứng số: 07/QĐ-VKS-LC ngày 28/4/2022 của Viện KSND huyện Lang Chánh.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại: WAVE S, màu sơn: đỏ- đen-xám, biển kiểm soát: 36Z4-0346, là chiếc xe Tr và M sử dụng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định chủ sở hữu của chiếc xe là ông Lương Văn V (bố đẻ Lương Văn Tr), ông V không biết Tr mượn xe để đi mua ma túy, nên Cơ quan điều tra đã quyết định trả lại cho ông V, đến nay ông V không còn yêu cầu gì đối với chiếc xe.

Theo lời khai của các bị cáo, các bị cáo mua số ma túy trên với một người đàn ông không biết tên, địa chỉ tại khu vực cầu làng Ngòn, thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc Lặc. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được, nên không có căn cứ để xử lý.

Cáo trạng số 08/CT-VKSLC ngày 29/4/2022 của VKSND huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa truy tố các bị cáo Lương Văn M và Lương Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo, xử phạt Lương Văn M từ 19 (Mười chín) đến 22 (Hai mươi hai) tháng tù; Lương Văn Tr từ 18 (Mười tám) đến 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ. Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với số vật chứng là mẫu vật còn lại sau giám định và dụng cụ sử dụng chất ma tuý. Bị cáo Lương Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Lương Văn Tr.

Các bị cáo Lương Văn M và Lương Văn Tr thành khẩn nhận tội; không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ thục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Về căn cứ định tội, định khung hình phạt đối với các bị cáo: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của người tham gia tố tụng khác, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 16/12/2021, Lương Văn M khởi xướng việc mua ma tuý để sử dụng, theo đó, M góp 600.000 đồng, Tr góp 500.000 đồng. M và Tr cùng đi mua ma tuý, sau khi mua được ma túy, M và Tr sử dụng một phần, phần còn lại cả hai cùng cất giữ, đến 21 giờ 35 phút cùng ngày thì bị bắt. Các bị cáo mua và cất giữ chất ma tuý chỉ nhằm mục đích để sử dụng nên hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Các bị cáo tàng trữ 02 chất ma túy là Heroine và Methamphetamine cùng được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng các chất ma tuý là 0,939g (không phẩy chín ba chín gam). Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lang Chánh truy tố các bị cáo Lương Văn M và Lương Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất vụ án: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Để pháp luật được tôn trọng, trật tự an toàn xã hội được duy trì, để giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, đấu tranh loại trừ các tệ nạn xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm theo quy định của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về đồng phạm, vai trò và trách nhiệm của các bị cáo. Các bị cáo cùng tham gia tàng trữ để sử dụng trái phép chất ma tuý, không có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Lương Văn M là người khởi xướng, rủ người khác góp tiền mua ma túy để sử dụng và góp với số tiền nhiều hơn nên có vai trò thứ nhất và phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn bị cáo Lương Văn Tr.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đều là người dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi, nhận thức pháp luật còn hạn chế, nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Các bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhưng không chịu tu trí làm ăn, đều là người nghiện ma tuý. Như vậy, các bị cáo không có khả năng tự cải tạo, nên áp dụng Điều 38 của BLHS 2015 buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mới đủ điều kiện để các bị cáo cải tạo, học tập trở thành người tốt.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo phạm tội về ma tuý, nhưng các bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có việc làm và thu nhập ổn định; riêng bị cáo Lương Văn Tr còn là thành viên trong hộ nghèo giai đoạn 2022 - 2025, nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[7]. Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Đối với số vật chứng gồm: 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định, do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, là ma tuý và dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA; số loại: WAVE S; màu sơn: đỏ-đen-xám, biển kiểm soát: 36Z4-0346, Cơ quan điều tra đã xử lý trong quá trình điều tra, đến nay chủ sở hữu của chiếc xe là ông Lương Văn V không còn yêu cầu gì đối với chiếc xe, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Các bị cáo Lương Văn M và Lương Văn Tr bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Lương Văn M và Lương Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo M và Tr.

Xử phạt:

- Bị cáo Lương Văn M 19 (Mười chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/12/2021.

- Bị cáo Lương Văn Tr 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/12/2021.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu huỷ số vật chứng gồm: 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định, do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, đựng toàn bộ bao gói mở niêm phong của phong bì M1, M2, M3 và 01 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,096g của phong bì niêm phong ký hiệu M1; bao thuốc lá màu vàng và các điếu thuốc đầu lọc; 04 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,390g; 0,242g chất bột vón cục màu trắng, của phong bì niêm phong ký hiệu M2; 01 ống tre của phong bì ký hiệu M3. Toàn bộ số vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 12/5/2022.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/NQ-UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án đối với các bị cáo M, Tr. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2022/HSST

Số hiệu:08/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lang Chánh - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;