TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T - Sinh ngày 04 tháng 9 năm 1982 tại: huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: thôn H, xã Y, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo:
không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn G và con bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án: không, tiền sự:
- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 62/QĐ-XPHC ngày 31/01/2017 của Công an huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã xử phạt Nguyễn Văn T 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Nguyễn Văn T chưa chấp hành quyết định xử phạt;
- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ-XPHC ngày 15/12/2021 của Công an xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã xử phạt Nguyễn Văn T 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Nguyễn Văn T chưa chấp hành quyết định xử phạt;
- Tại Quyết định về việc áp dụng biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 06/QĐ-CT ngày 27/12/2021 của Chủ tịch UBND xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Nguyễn Văn T với thời hạn 03 tháng. UBND xã Yên Lâm đã chấm dứt áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Nguyễn Văn T ngày 07/01/2022.
Nhân thân: tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính số 03/QĐ-TA ngày 31/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn T với thời hạn 18 tháng. Nguyễn Văn T đã chấp hành xong ngày 06/12/2018.
Bị cáo bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, tạm giữ từ ngày 31/12/2021 đến ngày 06/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh tạm giam số 02/CQĐT ngày 06/01/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô (có mặt).
- Người tham gia tố tụng khác:
Người chứng kiến: Ông Phạm Ngọc K (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 31/12/2021 T đi xe ôm đến khu vực cầu Lưu Phương, thuộc xã Lưu Phương, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy loại Heroin được gói trong một gói giấy mầu trắng rồi mang về nhà. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi T vừa bỏ gói ma túy trên ra mặt bàn uống nước tại gian phòng khách, chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Mô kiểm tra phát hiện lập biên bản thu giữ trên mặt bàn uống nước trước mặt Toàn 01 gói giấy có kích thước (2,5x0,9)cm, mở ra bên trong có chất bột mầu trắng. T khai nhận đó là ma túy loại Heroin của T mua về để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an huyện Yên Mô kiểm tra phát hiện. Cơ quan Công an huyện Yên Mô đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong 01 gói giấy chứa chất bột dạng cục mầu trắng trong phong bì giấy theo quy định ký hiệu là A.
Ngày 01/01/2022 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô ra Quyết định trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình giám định chất ma túy đối với chất dạng cục màu trắng niêm phong trong một phong bì, ký hiệu M thu giữ của Nguyễn Văn T.
Tại bản kết luận giám định số 97/KLGĐ-PC09-MT ngày 06/01/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:
Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1361 gam, là ma túy, loại Heroin.
Heroin là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Tại bản Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 14 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình giữ nguyên quyết định truy tố, đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 31/12/2021.
- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn T còn lại sau khi giám định là 0,0830 gam Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong phong bì theo quy định; 01 phong bì giấy niêm phong theo quy định, trên vỏ phong bì ghi “Vỏ bao gói niêm phong vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn T ngày 31/12/2021 tại Hảo Nho, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình”.
- Về án phí: bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định số 97/KLGĐ-PC09-MT ngày 06/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Vào hồi 20 giờ 30 phút, ngày 31/12/2021 tại nhà ở của mình thuộc thôn Hảo Nho, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, Nguyễn Văn T đã có hành vi cất giữ 0,1361 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Yên Mô kiểm tra và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ số ma túy trên của Nguyễn Văn T.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc tàng trữ, sử dụng ma túy là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý cất giấu 0,1361 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự nên việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đối với bị cáo theo bản Cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Điều 249. Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
…” [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Văn T không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn T có nhân thân xấu, có 03 tiền sự và đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (đến thời điểm phạm tội đã đủ điều kiện được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính).
[4] Về hình phạt: Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo Nguyễn Văn T tàng trữ trái phép, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy mặc dù bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà vẫn tiếp tục tàng trữ ma túy để sử dụng nên cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.
[5] Về nguồn gốc ma túy: Nguyễn Văn T khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực chân cầu Lưu Phương, xã Lưu Phương, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình vào khoảng 19 giờ ngày 31/12/2021 đem về nhà để sử dụng, bản thân Toàn không biết tên tuổi, địa chỉ của người bán ma túy cho mình nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Yên Mô không có cơ sở để điều tra xử lý.
[6] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Đối với số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn T còn lại sau khi giám định là 0,0830 gam Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong phong bì theo quy định và 01 phong bì giấy niêm phong theo quy định, trên vỏ phong bì ghi “Vỏ bao gói niêm phong vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn T ngày 31/12/2021 tại Hảo Nho, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[7] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 31/12/2021.
3. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn T còn lại sau khi giám định là 0,0830 gam Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong phong bì giấy theo quy định; 01 phong bì giấy niêm phong theo quy định, trên vỏ phong bì ghi “Vỏ bao gói niêm phong vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn T ngày 31/12/2021 tại Hảo Nho, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình”.
Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Mô ngày 14/01/2022.
4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2022/HS-ST
Số hiệu: | 08/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về