Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ÂN THI, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Hồ Tùng Mậu, huyện Ân Thi, Tòa án nhân dân huyện Ân Thi mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2022/TLST-HS ngày 01/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với:

- Bị cáo:

Họ và tên: Dương Văn L, sinh năm 1966 Giới tính: Nam Nơi sinh và nơi cư trú: Thôn X, xã H, huyện K, tỉnh Hưng Yên Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do Trình độ học vấn: 5/10 Bố đẻ: Dương Văn N, sinh năm 1946. Nghề nghiệp: Trồng trọt Mẹ đẻ: Lương Thị X, sinh năm 1948. Nghề nghiệp: Trồng trọt Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con lớn Vợ: Vũ Thị T, sinh năm 1975. Nghề nghiệp: Trồng trọt Con: Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2001 Tiền sự: Không Tiền án: Ngày 23/10/2018, bị Toà án nhân dân thành phố Hưng Yên xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Ngày 22/4/2020, chấp hành xong hình phạt tù.

Nhân thân:

- Ngày 24/01/1989, bị Toà án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái xử phạt 09 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản riêng của công dân.

- Ngày 31/12/1993, bị Toà án nhân dân huyện Kim Thi, tỉnh Hải Hưng xử phạt 30 tháng tù giam về tội Cướp tài sản của công dân.

- Ngày 24/4/2002, bị Toà án nhân dân huyện Kim Động xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp tài sản.

- Ngày 30/6/2005, bị Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản.

- Ngày 16/11/2006, bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 07 năm 6 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 23/12/2021, chuyển tạm giam từ ngày 29/12/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ân Thi.

(Bị cáo trích xuất, có mặt tại phiên toà)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn H, sinh năm 2001 (vắng mặt) 2. Ông Trần Văn P, sinh năm 1973 (vắng mặt) Đều trú tại: thôn B, thị trấn L, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

- Người làm chứng: Anh Dương Quốc V, sinh năm 1979 (vắng mặt) Trú tại: Thôn X, xã H, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

- Người chứng kiến: Ông Vương Văn T, sinh năm 1962 (vắng mặt) Trú tại: thôn K, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện chất ma tuý, khoảng 08h30 ngày 23/12/2021, Dương Văn L đi một mình từ nhà đến khu vực nhà thờ Kẻ Sặt, thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương để mua ma tuý về sử dụng. Lân gặp một người đàn ông lạ mặt không biết tên, tuổi, địa chỉ, thấy giống người nghiện ma túy nên Lân lại gần người đàn ông, rồi hỏi “có hàng không để cho 200.000 đồng”, thì người đàn ông đồng ý. Lân đưa cho người đàn ông số tiền 200.000 đồng (gồm 02 tờ mệnh giá 100.000 đồng), người đàn ông cầm tiền và đưa lại cho Lân 03 gói giấy bạc bên trong đều chứa chất dạng cục và bột màu trắng, Lân biết là ma tuý, loại Heroine nên cầm 03 gói giấy bạc chứa ma tuý cất vào túi áo khoác phía trong bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về để tìm nơi sử dụng. Khoảng 09h50 cùng ngày, khi Lân đi đến đoạn Quốc lộ 38 thuộc địa phận thôn K, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi thì bị lực lượng Công an huyện Ân Thi phối hợp cùng đội 3 Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hưng Yên và Công an xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi tiến hành tuần tra trên Quốc lộ 38 thấy Lân có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe kiểm tra.

Quá trình kiểm tra phát hiện tại túi áo khoác phía trong bên trái của Lân đang mặc có 03 gói giấy bạc có kích thước lần lượt là (1,5 x 0,7)cm, (02 x 01)cm, (1,5 x 0,7)cm bên trong đều chứa chất dạng cục và bột màu trắng, Lân khai nhận là ma tuý, loại Heroine, mua về để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ân Thi đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của Lân gồm 03 gói giấy bạc có kích thước lần lượt là (1,5 x 0,7)cm, (02 x 01)cm, (1,5 x 0,7)cm bên trong đều chứa chất dạng cục và bột màu trắng và tiến hành niêm phong trong bì thư ký hiệu “I”; 01 xe mô tô biển số 89B1 -728.12, 01 đăng ký xe mô tô số 098128 mang tên Trần Văn H.

Tại kết luận giám định số 53/MT-PC09 ngày 26/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận về đối tượng giám định: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ghi ký hiệu “I”, có tổng khối lượng là 0,417g (Không phẩy bốn một bẩy gam), là ma tuý, là loại Heroine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 0,404g (Không phẩy bốn không bốn gam) Heroine được niêm phong giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ân Thi quản lý.

Quá trình điều tra, bị cáo Dương Văn L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe mô tô biển số 89B1-728.12 cùng 01 giấy đăng ký xe mô tô số 098128 mang tên Trần Văn H thu giữ của Lân. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô này thuộc quyền sở hữu của anh Trần Văn H, sinh năm 2001 ở thôn B, thị trấn L, huyện K. Ngày 23/12/2021, anh Trần Văn P sinh năm 1973 ở thôn B, thị trấn L (là bố của H) đi chiếc xe đến chơi tại nhà bạn là anh Dương Quốc V sinh năm 1979 ở Thôn X, xã H (là em trai của Lân). Tại đây, Lân đã mượn anh P chiếc xe này nhưng không nói và anh P cũng không biết việc Lân sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy.

Hiện 0,404g Heroine hoàn lại sau giám định trong bì thư niêm phong số 53/MT- PC09, 01 chiếc xe mô tô biển số 89B1-728.12 và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 098128 mang tên Trần Văn H đang được quản lý tại Kho vật chứng Công an huyện Ân Thi.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lân, do Lân khai không biết tên, địa chỉ, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra, làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKSAT ngày 31/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên đã truy tố bị cáo Dương Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Dương Văn L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và xin được khoan hồng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng số 09/CT-VKSAT ngày 31/3/2022; Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Dương Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Văn L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; các điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0.404g Heroine đựng trong phong bì được niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định số 53/MT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên. Trả anh Trần Văn H sinh năm 2001 ở thôn B, thị trấn L, huyện K chiếc xe mô tô biển số 89B1-728.12 cùng 01 giấy đăng ký xe mô tô số 098128 mang tên Trần Văn H.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lân phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên phù hợp khách quan với lời khai của người làm chứng là anh Dương Quốc V, người chứng kiến là ông Vương Văn T, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09h50 ngày 23/12/2021, tại Quốc lộ 38 thuộc địa phận thôn K, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, Dương Văn L đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 03 gói giấy bạc bên trong chứa khối lượng 0,417g ma tuý, loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy nói chung và Heroine nói riêng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn phạm tội với lỗi cố ý. Hiện nay tội phạm về ma túy là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng rất lớn đến tình hình an hinh trật tự xã hội. Vì vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử nghiêm minh là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hành vi của bị cáo Lân đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên đã truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử còn xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo để áp dụng hình phạt tương xứng [3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và hình phạt áp dụng Về tình tiết tăng nặng: Tại bản án số 38/2018/HSST ngày 23/10/2018, bị cáo bị Toà án nhân dân thành phố Hưng Yên xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 22/4/2020 chưa được xóa án tích nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là ông Dương Văn N được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án kết án về các tội phạm khác nhau nhưng không lấy đó làm bài học để tiếp thu sự giáo dục, cải tạo, để tu dưỡng rèn luyện bản thân, nay lại tiếp tục phạm tội mới. Điều đó chứng tỏ bị cáo rất coi thường pháp luật, do vậy ở lần phạm tội này cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, bắt bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng:

Heroine là chất ma túy được Nhà nước quản lý đặc biệt và cấm các hành vi mua bán, trao đổi, tàng trữ... cũng như sử dụng. Do đó, tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy được hoàn trả lại mẫu vật sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hưng Yên.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu nâu, biển số 89B1-728.12 cùng 01 giấy đăng ký xe mô tô số 098128 mang tên Trần Văn H thu giữ của Lân. Quá trình điều tra và tại phiên toà xác định chiếc xe mô tô này thuộc quyền sở hữu của anh Trần Văn H sinh năm 2001 ở thôn B, thị trấn L, huyện K. Ngày 23/12/2021, ông Trần Văn P sinh năm 1973 ở thôn B, thị trấn L (là bố của H) đi chiếc xe đến chơi tại nhà bạn là anh Dương Quốc V sinh năm 1979 ở Thôn X, xã H (là em trai của Lân). Tại đây, Lân đã mượn anh P chiếc xe này nhưng không nói và anh P cũng không biết việc Lân sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy. Do đó, chiếc xe máy cùng giấy tờ xe trên đây không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho Trần Văn H để đảm bảo quyền lợi.

[5]. Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Dương Văn L 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,404g Heroine đựng trong phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định số 53/MT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên.

- Trả lại anh Trần Văn H chiếc xe mô tô biển số 89B1-728.12 cùng 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Trần Văn H.

(Đặc điểm chi tiết các vật chứng được thể hiện theo Quyết định chuyển vật chứng số 08/QĐ-VKSAT ngày 31/3/2022 của VKS huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên và được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ân Thi theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/4/2022).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: bị cáo Dương Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày được giao nhận hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2022/HS-ST

Số hiệu:08/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ân Thi - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;