TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG CHÀ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 23/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở TAND huyện MC, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân huyện MC số: 07/2022/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Lò Văn T (tên gọi khác: không), sinh năm 1993, tại huyện MC, tỉnh Điện Biên.
Nơi cư trú: Bản MA1, xã PH, huyện MC, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn T và bà Lò Thị N; Vợ: Lò Thị X, bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, Tiền sự: không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/9/2022, tạm giam ngày 13/9/2022. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị D, trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có ma túy sử dụng cho bản thân, khoảng 06 giờ ngày 04/9/2022 Lò Văn T đi bộ từ nhà ở bản MA1, xã PH, huyện MC, tỉnh Điện Biên đến khu vực bản PH, xã PH, huyện MC tìm mua ma túy. Khi đến nơi T trao đổi và mua của một người đàn ông không rõ lai lịch 120.000 đồng Heroine. Sau khi mua được Heroine, T nhặt một mảnh nilon màu hồng gói lại, cất giấu trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long sau đó để vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người và đi làm thuê. Đến 06 giờ 45 phút cùng ngày, khi T đi đến khu vực bản Phong Châu, xã PH, huyện MC thì bị tổ công tác Công an huyện MC phối hợp với Công an xã PH kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Vật chứng, đồ vật, tài liệu thu giữ gồm: 0,159 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,047 gam, vật chứng còn lại 0,112 gam Heroine; 01 mảnh nỉlon màu hồng và 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 chiếc áo khoác màu đỏ, đen, sọc trắng đã cũ; 01 bật lửa ga màu xanh; 01 căn cước công dân mang tên Lò Văn T.
Kết luận giám định số 1217/KL-PC09 ngày 11/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 0,159 gam; Mẫu chất bột màu trắng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.
Cáo trạng số: 35/CT-VKSMC ngày 18/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo từ 1 năm 2 tháng đến 1 năm 4 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và một số đồ vật không có giá trị, không sử dụng được. Trả bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Lò Văn T Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố. Lời nói sau cùng bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt và miễn án phí hình sự sơ thẩm, miễn hình phạt bổ sung.
Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện MC đã truy tố và kết luận. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng tình tiết: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân giúp cơ quan tố tụng nhanh chóng kết thúc vụ án và xem các tình tiết khác là tình tiết có lợi cho bị cáo: Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức có phần hạn chế, hoàn cảnh kinh tế khó khăn thuộc hộ nghèo, có con còn nhỏ, nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS để xử phạt bị cáo ở thấp nhất do Viện kiểm sát đề nghị, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. HĐXX thấy rằng lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng và kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định:
Hồi 06 giờ 45 phút ngày 04/9/2022, tại khu vực bản PC, xã PH, huyện MC, tỉnh Điện Biên, tổ công tác Công an huyện MC phối họp với Công an xã PH, huyện MC phát hiện, bắt quả tang Lò Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,159 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.
Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện MC truy tố, luận tội và đề nghị xử phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét về tính chất của vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận bị cáo biết việc Nhà nước cấm tất cả các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma túy, biết tác hại của ma túy đối với sức khỏe và kinh tế của người sử dụng, nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện ma túy bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tang trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn. Xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hậu quả hành vi phạm tội của mình gây ra.
Xét về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, chưa bị kết án, nhưng là người nghiện ma túy.
Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy rằng tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối về hành vi phạm tội của bản thân. Bởi vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS, để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, thông qua đó thể hiện chính sách khoan hồng, giảm nhẹ của pháp luật đối với người phạm tội.
Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án như biên bản xác minh thu nhập, tài sản và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo sau khi phân tích điều kiện, hoàn cảnh, động cơ phạm tội, thái độ của bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS và xem xét các tình tiết có lợi khác để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đồng thời không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo HĐXX thấy rằng đề nghị của những người bào chữa là có căn cứ một phần nên cần chấp nhận một phần đề nghị này khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện MC, tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân nhân huyện MC; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người bào chữa không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng với quy định của pháp luật.
[4]. Về vật chứng:
01 phong bì thư niêm phong vật chứng của cơ quan CSĐT Công an huyện MC bên trong chứa: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 0,112 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bao thuốc lá thăng long, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. 01 chiếc áo khoác màu đỏ đen, sọc trắng, 01 bật lửa ga màu xanh. Những vật chứng trên là vật cấm tàng trữ, lưu hành, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
01 căn cước công dân số 011093001X mang tên Lò Văn T cần trả lại cho bị cáo theo qui định tại điểm b khoản 3 Điều 106/BLTTHS [5]. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông đã bán Heroine cho T, do T không biết rõ họ tên, địa chỉ của người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo 1 năm 2 tháng (một năm hai tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS + Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư niêm phong vật chứng của cơ quan CSĐT Công an huyện MC bên trong chứa: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 0,112 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bao thuốc lá thăng long, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 chiếc áo khoác màu đỏ đen sọc trắng;
01 bật lửa ga màu xanh.
+ Trả bị cáo Lò Văn T 01 căn cước công dân số 011093001X mang tên Lò Văn T.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện MC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện MC, tỉnh Điện Biên ngày 19/10/2022).
3. Về án phí:
Căn cứ vào Điều 135, khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Lò Văn T
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/11/2022).
Bản án 07/2022/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 07/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về