Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh ngày 28 tháng 01 năm 1985 tại Bắc Giang; nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T1, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nơi sinh sống: Tổ dân phố 8, phường V, quận Đ, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Lê Thị T; có vợ là Nguyễn Thị L (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 29-3-2022, đến ngày 31-3-2022 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Đặng Bá H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 28-3-2022, Trần Văn T đi xe buýt vào khu vực đường tàu quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng mua của một người phụ nữ không quen biết 1.200.000 đồng được 03 (ba) gói ma túy Heroine bọc bằng giấy nilon. Đến khoảng 11 giờ 15 phút ngày 29-3-2022, khi T đang đi ra khu vực nhà vệ sinh của lán trại thuộc khu du lịch Đ thuộc phường V, quận Đ để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an phường V và Công an quận Đ phát hiện, bắt quả tang bị cáo có hành vi cất giấu tại túi ngực phải áo bên ngoài T đang mặc 31 (ba mươi mốt) gói giấy nhỏ, kích thước tương đối đồng đều nhau (01x0,6) cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. Khám xét nơi ở của T tại khu lán trại công nhân nằm trong dự án khu du lịch Đ thuộc tổ dân phố 8, phường V, quận Đ, thành phố Hải Phòng không thu giữ được gì liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định số 118/KL-KTHS(MT) ngày 30-3-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang có khối lượng 1,02 gam, là ma túy Heroine.

Cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 08-7-2022 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Đ, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Trần Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu; thừa nhận nhận trong quá trình điều tra, không bị ép buộc khai báo không đúng sự thật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như bản cáo trạng đã nêu; sau khi đã phân tích nội dung vụ án, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự vì bị cáo không có tài sản riêng, hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy chất ma tuý sau giám định thu giữ của bị cáo.

Về vấn đề khác: Đối với người bán ma tuý cho bị cáo, do không xác định được tên, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở để xử lý.

Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, người làm chứng là ông Đặng Bá H vắng mặt nhưng đã có lời khai ở Cơ quan điều tra. Sự vắng mặt của người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng theo quy định tại khoản khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về tội danh và khung hình phạt:

[3] Lời khai của bị cáo T trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 11 giờ 15 phút ngày 29-3-2022, bị cáo T có hành vi cất giữ trái phép 1,02 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị công an bắt quả tang tại khu vực nhà vệ sinh của lán trại thuộc khu du lịch Đ thuộc phường V, quận Đ, thành phố Hải Phòng. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân quận Đồ Sơn đã truy tố bị cáo như bản cáo trạng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân và làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác hoặc gây ảnh hưởng đến sức khỏe, dịch bệnh đối với nhân dân. Vì vậy cần phải xử bị cáo một mức án nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản riêng, không có nguồn thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[9] Về xử lý vật chứng: Chất ma tuý thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 118MT/PC09 là vật cấm tàng trữ lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về vấn đề khác: Đối với người bán ma tuý cho bị cáo, do không xác định được tên, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở để xử lý, Hội đồng xét xử không xét.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn T 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 29 tháng 3 năm 2022.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ chất ma tuý sau giám định thu được của bị cáo T, được niêm phong trong 01 (Một) phong bì có dấu niêm phong số 118MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng.

(Theo đúng Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11 tháng 7 năm 2022, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Đ với Chi cục Thi hành án dân sự quận Đ, thành phố Hải Phòng).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đồ Sơn - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;