Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 02 năm 2022; Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa tại trụ sở để xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HS ngày 06/01/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/HSST-QĐ ngày 19/01/2022 đối với bị cáo:

BÙI THẾ Đ, sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Xóm 3, thôn Q, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam.

Trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Bố: Bùi Mạnh H, sinh năm 1946; Mẹ: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1952.

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Hoàng Thị Q, sinh năm 1993 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 10/7/2012 Công an huyện Kim Thành ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 126/QĐ-XPHC, phạt tiền Bùi Thế Đ 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị tạm giữ từ ngày 18/9/2021 đến ngày 20/9/2021, áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 20/9/2021 đến nay.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986.

2. Phạm Xuân T1, sinh năm 1964.

(Bị cáo có mặt; những người làm chứng đều vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 16/9/2021, Bùi Thế Đ thuê xe ôm của một người không quen biết từ thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương đến khu vực đường tàu thuộc địa phận xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Đ gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 06 viên ma túy dạng nén “kẹo” màu xanh và 03 túi nilon màu trắng bên trong chứa ma túy loại “ke” với giá 5.100.000 đồng, rồi đi xe ôm về nhà. Khoảng 0 giờ 15 phút ngày 18/9/2021, Đ cất giấu số ma túy nêu trên trong túi quần bên trái phía trước đang mặc và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại SH màu trắng, biển số 34B4- xxxxx đến xã T, huyện K. Tại đây, Đ gặp người quen là anh Nguyễn Văn T và anh Phạm Xuân T1 đang ngồi chơi tại khu vực gốc đa, ngã ba thuộc thôn P, xã T. Khi đó, Đ thấy mệt nên nhờ anh T chở Đ đến xã K, huyện Kim Thành để tìm bạn, anh T đồng ý và anh T1 đi cùng. Hồi 01 giờ cùng ngày, khi anh T điều khiển xe mô tô biển số 34B4-xxxxx trên chở anh T1 ngồi giữa, Đ ngồi sau cùng đến đường tỉnh lộ 390E thuộc địa phận thôn Hải Ninh, xã Kim Tân thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu trắng kích thước 4x4cm bên trong chứa 06 viên nén màu xanh; 03 túi nilon màu trắng kích thước mỗi túi 2,5x2,5cm bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (do Đ lấy từ trong túi quần bên trái phía trước giao nộp và khai là ma túy “kẹo” và “ke”, mục đích để Đ sử dụng) và xe mô tô biển số 34B4-xxxxx.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Thế Đ, kết quả không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản Kết luận giám định số 539/KLGĐ-PC09 ngày 20/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: 06 (sáu) viên nén màu xanh trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì thu của Bùi Thế Đ, gửi giám định có tổng khối lượng là 2,469g là ma túy, loại MDMA; chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 03 túi nilon màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Bùi Thế Đ, gửi đến giám định tổng khối lượng là 2,237g là ma túy, loại Ketamine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 2,382g ma túy loại MDMA, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 2,093g ma túy loại Ketamine, 03 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định, trong phong bì niêm phong số 539/KLGĐ-PC09.

Quá trình điều tra, Bùi Thế Đ thừa nhận hành vi phạm tội.

Anh Nguyễn Thế H cho Đ mượn xe mô tô biển số 34B4-xxxxx, nhưng không biết mục đích sử dụng xe của Đ, quá trình điều tra xác định chiếc xe này là tài sản hợp pháp của anh H nên ngày 21/9/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh H.

Nguyễn Văn T và Phạm Xuân T1 đi cùng Đ nhưng không biết việc Đ tàng trữ trái phép chất ma túy; đối với người bán chất ma túy cho Bùi Thế Đ, tài liệu điều tra không xác định được căn cước, lý lịch nên không có căn cứ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 03/CT – VKS ngày 22/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành đã truy tố bị cáo Bùi Thế Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

* Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo; nêu những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân. Đề nghị: Tuyên bố bị cáo Bùi Thế Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106;

khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Xử phạt: Bùi Thế Đ từ 39 đến 45 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 18/9/2021.

- Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

- Xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 2,382g ma túy loại MDMA, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 2,093g ma túy loại Ketamine, 03 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định, trong phong bì niêm phong số 539/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Kim Thành; Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại quá trình điều tra và những người làm chứng; những lời khai này cũng phù hợp khách quan với các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Kim Thành đã thu thập cùng kết luận của Cơ quan giám định về số ma túy đã thu giữ của bị cáo 2,469g ma túy, loại MDMA và 2,237g ma túy, loại Ketamine.

Đã có đủ căn cứ kết luận: Hồi 01 giờ ngày 18/9/2021 tại thôn H, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương; Bùi Thế Đ có hành vi cất giấu trái phép 2,469 gam ma túy loại MDMA và 2,237 gam ma túy loại Ketamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Căn cứ Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều luật của Bộ luật hình sự năm 2015, thì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng 02 chất ma túy MDMA và Ketamine mà bị cáo cất giấu trái phép mục đích để sử dụng so với mức tối thiểu của từng chất ma túy trên được quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là 60,565% (thuộc trường hợp dưới 100%). Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành đã truy tố Bùi Thế Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, năm 2012 đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên hiểu rất rõ tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình cũng như đối với xã hội và sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật đối với loại tội phạm này; nhưng bị cáo đã bất chấp pháp luật, tàng trữ 02 loại ma túy với tổng khối lượng 4, 706 gam, tiếp tay cho một tệ nạn xã hội nguy hiểm mà nhà nước và nhân dân ta đang tích cực đấu tranh, bài trừ. Do vậy, cần xét xử vụ án nghiêm minh, áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và mang tính răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tại quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn; có bố đẻ được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng 3 nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[6] Xử lý vật chứng:

- 2,382g ma túy loại MDMA, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 2,093g ma túy loại Ketamine, 03 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định, trong phong bì niêm phong số 539/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cho tịch thu tiêu hủy.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

điểm c khoản 1 Điều 47; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 136 ; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Tuyên bố: Bùi Thế Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng hình phạt chính: Xử phạt Bùi Thế Đ 48 (bốn mươi tám) tháng tù;

thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 18/9/2021.

- Xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 2,382g ma túy loại MDMA, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 2,093g ma túy loại Ketamine, 03 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định, trong phong bì niêm phong số 539/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương. (Số lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Thành).

- Án phí: Bùi Thế Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo; đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;