Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 07/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M , TỈNH T

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày16/02/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M , tỉnh T , xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2021/TLST-HS ngày 28/12/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST-HS ngày 04/02/2022 đối với bị cáo:

Ngân Văn H ,sinh năm 1985; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Chỗ ở: Bản C , xã H , huyện Q , tỉnh T . Trình độ học vấn: 11/12.

Con ông: Ngân Văn M , sinh năm:1955. Con bà: Lò Thị D , sinh năm: 1956. Vợ: Lò Thị N , sinh năm: 1990 (hiện nay đã ly hôn). Con: Ngân Huỳnh Gia H , sinh năm: 2013.

Bố, mẹ và con của bị cáo đang sinh sống bằng nghề trồng trọt tại bản C xã Hiền C , huyện Q , tỉnh T .

Bị cáo có sử dụng ma túy. Tiền án; tiền sự: Không.

*Nhân thân:

- Tại bản án số: 324/2005/HSST ngày 16/12/2005 bị TAND tỉnh T xử phạt 07 (bảy) năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích);

- Tại bản án số: 39/2007/HSST ngày 07/12/2007 bị TAND huyện N , tỉnh T xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam (đã được xóa án tích).

Bị tạm giữ ngày 21/09/2021, chuyển tạm giam ngày 27/9/2021tại nhà tạm giữ Công an huyện M , có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho các bị cáo:Ông Hà Văn K - Trợ giúp viên pháp lýTrung tâm trợ giúp pháp lý số 1, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T .

Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ, ngày 21/9/2021, bị cáo đi xe khách từ nhà theo quốc lộ 15C lên huyện M , tỉnh T để tìm mua ma túy sử dụng. Đến 16 giờ cùng ngày đến bản K , xã T , huyện M , tỉnh T thì xuống xe, đang đi thì gặp người đàn ông dân tộc Mông khoảng 70 tuổi, hỏi để mua ma túy, người này trả lời không có nhưng nói có thể đi mua ma túy giúp. Bị cáo đưa cho người này số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng, người này cầm tiền đi khoảng 30 phút thì quay lại đưa cho bị cáo 04 (bốn) gói nilon màu hồng bên trong mỗi gói có chứa Heroine, bị cáo cầmma túy đi đến khu vực bể nước công cộng của bản K , xã T để sử dụng. Sử dụng xong, các gói nilon đã bóc bị cáo gói lại, phần Heroine lấy ra sử dụng còn thừa bị cáo dùng một gói nilon màu xanh gói lại, rồi bỏ tất cả 05 gói ma túy vào túi áo phía trước ở bên trái của áo chống nắngđang mặc để đi về nhà. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, bị cáo đi đến chốt kiểm soát dịch bệnh Covid-19 tại khu vực bản P , xã T , huyện M , tỉnh T , thì bị tổ công tác Công an huyện M đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát yêu cầu dừng lại kiểm tra. Tổ công tác đã phát hiện, thu giữ trong túi áo của bị cáo đang mặc có 04 (bốn) gói nilon màu hồng và 01 (một) gói nilon màu xanh bên trong mỗi gói nilon có chứa Heroine,Bị cáo khai nhận tất cả số tang vật trên là ma túy mua về để sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số: 2992/PC09 ngày 27/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T , được kết luận như sau:

Các cục chất bột dạng nén màu trắng của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “vật chứng thu giữ của Ngân Văn H ” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,341g (không phẩy ba một bốn một gam) loại: Heroine.

Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số:12/CT-VKS-ML ngày 27/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tốbị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tốkhông bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, không ai xúi giục hay ép buộc nhận tội thay người khác.Bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy trái phép là vi phạm pháp luật và bị Nhà Nước nghiêm cấm nhưng do không kìm chế được bản thân nên đã cố tình phạm tội. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng,không khai báo thêm tình tiết mới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luậnvà luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về điều luật: Áp dụng:Điều 38;điểm s khoản 1 Điều 51;Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS;

Về hình phạt: Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo từ 13 đến15 tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp nên không có tính khả thi.

Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt nam cấm lưu hành, tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáolà người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Ý kiến người bào chữa: Người bào chữađồng tình với quan điểm truy tốcủa VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Người bào chữa cho rằng: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn, nên đề nghị HĐXX xem xét chobị cáo được hưởngmức ánthấp nhất,tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình và xã hội, bản thân trở thành công dân có ích và đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa, khôngthay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng:Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xétmức án thấp nhất đểbị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M , Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện M , Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện M , Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo và bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Bị cáotàng trữ0,341g (không phẩy ba một bốn một gam) Heroine,đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tốlà có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túycủa Nhà Nước. Hiện nay ma túy đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội về tác hại của nó, ma tuý là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự,biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụnglà vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

Trong giai đoạn điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải,bị cáo thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Về nhân thân, bị TAND tỉnh T xử phạt 07 (bảy) năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Bị TAND huyện N , tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam, bị cáo đã thi hành xong các bản án và đều đã được xóa án tích).

Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho cácbị cáo làphù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ. đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai củabị cáo tại phiên tòa, cho thấybị cáolàm nghềtrồng trọt thu nhập không ổn định, là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối vớibị cáo.

[5]. Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt Nam cấm lưu hành, cần tịch thu, tiêu hủy.

[6].Xét về phần án phí và quyền kháng cáo:Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7]. Các nhận định khác:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã mua giúp ma túy cho bị cáo.Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận không biết tên, địa chỉ cụ thể nên cơ quan CSĐT Công an huyện M không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Về điều luật:

Căn cứ: Điểm c khoản1 Điều 249; Điều 38; Điều 50;Điểm s khoản 1Điều 51;Điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; Khoản 2 Điều 106;Điều 260; Điều 331, Điều 333 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ: Điều 135, Điều 136BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Về tội danh:

Tuyên: Bị cáo Ngân Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Về hình phạt:

- Hình phạt chính, xử phạtbị cáo:14 (Mười bốn) tháng tù.Thời gian chấp hành hình phạt tùtính từ ngày bị tạm giữ(21/09/2021).

- Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung chobị cáo.

Về tang vật:

Tịch thu tiêu hủy:Phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, mặt trướcghi vụ Ngân Văn H TC33, mặt sau được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lương Xuân M , Lê Minh T , Lưu Bình N và các hình dấu đỏ tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T đóng giáp lai. Phong bì niêm phong còn nguyên vẹn.

Vật chứng kể trên đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M , tỉnh T , theo Quyết định chuyển vật chứng số:11/QĐ-VKS-ML, ngày 27/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M và Biên bản giao nhận vật chứng số:22/NK/2022ngày28/12/2021 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M , tỉnh T .

Về án phí: Bị cáo được miễn tiền án phí HSST.

Quyền kháng cáo, kháng nghị:

Án xử công khai, có mặtbị cáo bị cáo; Người bào chữa chobị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;