Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỐT NỐT - THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đã thụ lý số 101/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2022/HSST-QĐ ngày 13 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

Đoàn Văn Tr - sinh năm 1996; nơi đăng ký thường trú: khu vực Phụng Thạnh 1, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Hữu H , sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị M , sinh năm 1973; Tiền án: Chưa; tiền sự: Chưa; Nhân thân: Ngày 26/01/2013 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0001746/QĐ-XPHC ngày 26 tháng 01 năm 2013 của Trưởng công an phường T với số tiền 750.000 đồng, chưa nộp phạt; Ngày 02/7/2015 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quyết định số 111QĐ-XPVPHC ngày 02 tháng 7 năm 2015 về hành vi tàng trữ cất giấu trong người các loại công cụ, phương tiện dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng với số tiền phạt là 2.500.000 đồng, đã nộp phạt xong; Ngày 12/7/2019 bị Phó trưởng Công an quận T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quyết định số 0017404/QĐ-XPHC ngày 12 tháng 7 năm 2019 về hành vi “đánh nhau” với số tiền phạt là 750.000 đồng, chưa nộp phạt. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an quận T. (có mặt tại phiên tòa)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Văn M – sinh năm 1994. Địa chỉ: Khu vực Tràng Thọ 1, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ. (có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn Văn Tr vào mạng xã hội Facebook tham gia nhóm “Hội đồng phê” và nhắn tin hỏi mua ma túy bằng cách để lại số tiền mua ma túy và số điện thoại để người bán có thể liên lạc. Đến khoảng 07 giờ ngày 02/9/2021, có số điện thoại gọi cho Tr hẹn giao ma túy ở đường Nguyễn Trọng Quyền nên Tr điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 65F1 – 668.83 đến đường Nguyễn Trọng Quyền thuộc khu vực Lân Thạnh 2, phường Trung Kiên quận T Nốt để lấy ma túy. Khi đến nơi hẹn thì Tr gặp một nam thanh niên lạ mặt đeo khẩu trang, Tr đưa số tiền 2.100.000 đồng cho người thanh niên này và được người thanh niên chỉ nơi cất giấu ma túy trong gói thuốc lá để trên thanh sắt ở cây cầu trên đường Nguyễn Trọng Quyền. Sau khi lấy được ma túy theo chỉ dẫn của người thanh niên thì Tr điều khiển xe mô tô đến ngã tư gần cầu Bắc Đuông thuộc khu vực Lân Thạnh 2, phường Trung Kiên thì bị lực lượng Công an dừng xe kiểm tra phát hiện gói thuốc lá bên trong có chứa chất nghi ma túy được cất trong túi quần jean bên phải Tr đang mặt trên người nên đưa về trụ sở làm việc. Tang vật và tài sản thu giữ gồm: 02 (Hai) gói nilon nẹp miệng, bên trong chứa tinh thể rắn không màu và 02 (hai) viên nén màu xanh, tất cả được để trong gói nilon nẹp miệng để trong bao thuốc lá hiệu Bastos; 01 (một) điện thoai di động hiệu Oppo, loại cảm ứng, màu hồng, bể màn hình, vỏ ngoài bị trầy xước; 01 xe mô tô biển kiểm soát 65F1 – 668.83.

Tại Kết luận giám định số 275/KLGĐ-PC09 ngày 08/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ, kết luận:

+ Tinh thể không màu trong 02 gói nilon (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, tổng khối lượng 0,8218 gam.

+ 02 viên nén màu xanh trong gói nilon (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 0,9532 gam.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 65F1 – 668.83 cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Trần Văn Minh.

Tại Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận T - thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo Đoàn Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Đoàn Văn Tr đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận T truy tố. Đồng thời, bị cáo xác định không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn Minh trình bày do có quen biết nên cho bị cáo mượn xe mô tô biểm kiểm soát 65F1 – 668.83 để làm phương tiện đi lại, không biết bị cáo sử dụng xe mô tô này để đi mua ma túy. Hiện tại anh Minh đã nhận lại xe mô tô nên không có yêu cầu gì thêm.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố, không bổ sung gì thêm; đồng thời phát biểu quan điểm luận tội phân tích hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự... Trên cơ sở đó đề nghị: Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù giam.

Hình phạt bổ sung: miễn cho bị cáo do không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số 275/KL-PC09 ngày 08 tháng 9 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ bên trong có chứa thành phần ma túy còn lại sau giám định; 01 vỏ thuốc lá hiệu Bastos đã qua sử dụng.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, loại cảm ứng, màu hồng, bể màn hình, vỏ ngoài bị trầy xước + Công nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 65F1 – 668.83 cho anh Trần Văn M.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra – Công an quận T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Trong điều tra và qua tranh tụng tại phiên toà, bị cáo Đoàn Văn Tr đã thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong và kết luận giám định.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định Đoàn Văn Tr có hành vi đặt mua ma tuy trên mạng xã hội Facebook mục đích để sử dụng dần. Đến ngày 02/9/2021, Tr điều khiển xe mô tô đến điểm hẹn để giao dịch mua ma túy với người thanh niên lạ mặt. Sau khi lấy được ma túy, trong quá trình di chuyển khi đến ngã tư gần cầu Bắc Đuông thuộc khu vực Lân Thạnh 2, phường Trung Kiên, quận T thì bị thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện. Tại Kết luận giám định số 275/KLGĐ-PC09 ngày 08/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận:

+ Tinh thể không màu trong 02 gói nilon (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, tổng khối lượng 0,8218 gam.

+ 02 viên nén màu xanh trong gói nilon (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 0,9532 gam.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Chỉ tính riêng khối lượng ma túy MDMA mà bị cáo giấu trong người đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Nhưng do bị cáo cất giấu nhiều hơn 01 loại ma túy trong người nên Hội đồng xét xử căn cứ Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ “quy định về việc tính tổng khối khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của bộ luật hình sự 2015” để xác định mức độ vi phạm của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 bộ luật hình sự hay điểm o khoản 2 Điều 249 bộ luật hình sự . Theo đó, tỷ lệ phần trăm chất Ketamine mà bị cáo cất giấu trong người so với mức tối thiểu (20 gam) được quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 bộ luật hình sự là 4,1% ; tỷ lệ phần trăm chất MDMA mà bị cáo cất giấu trong người so với mức tối thiểu (05 gam) được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 bộ luật hình sự là 19,0%, như vậy, tổng tỷ lệ phần trăm các chất ma túy mà bị cáo cất giấu trong người là 23,1% (nhỏ hơn 100% so với quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 bộ luật hình sự) nên chỉ thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 bộ luật hình sự.

Như vậy, căn cứ theo qui định pháp luật, hội đồng xét xử xác định hành vi mà bị cáo Tr thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy; xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Ngoài ra, ma tuý còn là hiểm hoạ, là nguyên nhân gây ra sự suy thoái về đạo đức, lối sống; ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, sức khỏe và đời sống văn hóa lành mạnh của nhân dân, đồng thời là nguyên nhân gây nên các tệ nạn xã hội khác. Xét, bị cáo là người khỏe mạnh nhưng không chịu khó làm ăn để lo cho bản thân và gia đình mà lại tiêm nhiểm thói hư tật xấu, sa đà vào nghiện ngập; Bị cáo có nhân thân xấu vì bị xử phạt hành chính vào các năm 2013, 2015 và 2019, trong đó bị cáo chưa nộp phát đối với các quyết định xử phạt vi phạm hành chính năm 2013 và năm 2019. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo hoàn toàn nhận thức được tác hại của chất ma túy và biết được việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý, nhưng chỉ vì để thỏa mãn cơn nghiện cho nên bị cáo đã bất chấp pháp luật mua số tiền lớn ma túy để sử dụng dần. Do đó, cần thiết xử lý nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo cũng như đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bản thân bị cáo còn trẻ tuổi, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo có cơ hội sớm về hòa nhập cộng đồng và rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử thống nhất đề nghị của đại diện Viện kiểm sát miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số 275/KL-PC09 ngày 08 tháng 9 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ bên trong có chứa thành phần ma túy còn lại sau giám định; 01 vỏ thuốc lá hiệu Bastos đã qua sử dụng.

+ Đối với 01 điện thoại hiệu Oppo màu hồng, loại cảm ứng, bị bể màn hình, vỏ ngoài bị trầy xước do bị cáo thừa nhận dùng điện thoại để liên lạc mua ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

+ Về xe mô tô biển kiểm soát 65F1 – 668.83 của anh Trần Văn M cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại, anh M không biết bị cáo dùng xe này đi mua ma túy. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh Trần Văn M, nghĩ nên công nhận.

[8] Các vấn đề khác: Đối với người thanh niên lạ mặt đã bán ma túy cho bị cáo, do chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra chưa tiến hành làm việc được. Hội đồng xét xử thấy cần kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở; Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Văn Tr 01 (môt) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 02/9/2021.

Hình phạt bổ sung: Miễn cho bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số 275/KL-PC09 ngày 08 tháng 9 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ bên trong có chứa thành phần ma túy còn lại sau giám định; 01 vỏ thuốc lá hiệu Bastos đã qua sử dụng.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại hiệu Oppo màu hồng, loại cảm ứng, bị bể màn hình, trầy vỏ ngoài.

+ Công nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T đã trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 65F1 – 668.83 cho anh Trần Văn M.

Hiện các vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận T theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/12/2021.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đoàn Văn Tr phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

* Về quyền, nghĩa vụ và thời hạn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thốt Nốt - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;