Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 16/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình mở phiên tòa công khai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2022/HSST ngày 18/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HS ngày 02/3/2022 đối với bị cáo:

Ke Văn T, tên gọi khác (không), sinh ngày 16 tháng 9 năm 1985 tại huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã T, huyện M, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ke Văn Ư, sinh năm 1965 và bà Hà Thị Q (đã chết); bị cáo chưa có vợ con.

Về nhân thân: là người nghiệm ma túy; năm 2010 đã bị Tòa án nhân dân huyện Mai Châu xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền án,tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 01/09/2021 chuyển tạm giam ngày 10/09/2021, ngày 10/02/2022 được áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 ngày 01/9/2021 Ke Văn T điều khiển xe mô tô của mình đến nhà người quen ở xã Đồng Tân, huyện Mai Châu để vay tiền. Trên đường về T đã nhặt được một gói ma túy ở trong bao thuốc lá THĂNG LONG bên ven đường QL6. T vứt vỏ bao thuốc lá và cất giấu gói ma túy vừa nhặt được ở yên xe mô tô của mình, rồi tiếp tục điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến khu vực ngã ba Tòng Đậu thì bị cơ quan Công an phát hiện và bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 267/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 26/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Các viên nén màu hồng và màu xanh vật chứng thu giữ của Ke Văn T có tổng khối lượng 18,79 gam là ma túy loại Methamphetamin.

Bản cáo trạng số 04/CT- VKS - HS ngày 17/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Ke Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Ke Văn T từ 07 năm đến 08 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu toàn bộ số ma túy của bị cáo để tiêu hủy sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 28H1-366.81, đã dùng vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị tuyên tịch thu để phát mại xung quỹ nhà nước.

Bị cáo Ke Văn T nhất trí với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Ke Văn T khai nhận về hành vi phạm tội như sau: Ngày 01/9/2021 Ke Văn T đã tàng trữ trái phép 18,79 gam là ma túy loại Methamphetamin trên xe mô tô của mình với mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, thu giữ tài liệu; Kết luận giám định; biên bản hỏi cung và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận: Ke Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý cụ thể. Tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

g) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoạc XLR11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam Như vậy bản cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn lối sống buông thả của mình, bị cáo đã cố tình phạm tội.

Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu là người nghiện ma túy, năm 2010 đã bị xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tình tiết này được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh và thẩm vấn công khai tại phiên tòa, thể hiện gia đình hoàn cảnh, bị cáo là người nghiện ma túy không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng của vụ án trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ cần xử lý như sau: Đối với toàn bộ số ma túy của bị cáo hoàn trả sau giám định cần phải tịch thu để tiêu huỷ. Đối với chiếc xe mô tô BKS 28H1-366.81, Ke Văn T đã dùng để cất giấu trái phép ma túy nên cần tịch thu để phát mại xung quỹ nhà nước.

[6]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các điều 331, 332, 333 Bộ luật hình sự

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ke Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2.Về mức hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ke Văn T 07 (bảy) năm tù, được trừ đi 160 ngày đã bị tam giam tạm giữ (từ ngày 01/9/2021 đến 09/02/2022). Thời hạn tù tính từ ngày Ke Văn T đi chấp hành án.

3.Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tuyên tịch thu để tiêu hủy sau khi án có hiệu lực pháp luật: 01( một) phong bì niêm phong, mặt trước có chữ BỘ CÔNG AN, CÔNG AN TỈNH HÒA BÌNH, mẫu vật còn lại sau giám định vụ: Ke Văn T, sinh năm 1985 – phạm tội về ma túy, xảy ra ngày 01/9/2022 tại xã Đồng Tân, huyên Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Mặt sau phong bì có chữ ký của cán bộ niêm phong là Đỗ Thành Công và Vũ Mạnh Cường, được đóng dấu giáp lai, dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

-Tuyên tịch thu để phát mại xung quỹ nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu trắng, BKS 28H1-366.81, số máy JA39E 0316093, số khung 3904HY316052, vỏ xe bị xước, mút giá để chân đằng trước hai bên bị rách, mặt nạ đằng trước bị vỡ mất mảnh( kèm theo 01 chìa khóa xe) xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy móc bên trong.

Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số:19/THA ngày 28/02/2022.

3.Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình để xin xét xử phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;