Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 07/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 07/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20/5/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2020/TLST-HS ngày 02/4/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2020/QĐXXST-HS ngày 07/5/2020 đối với bị cáo:

Thao Văn Đ ; Sinh năm 1971. Nơi cư trú: Bản Pù Đứa, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Mông; Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: 2/12.

Con ông: Thao Tạo H , sinh năm 1942 và bà: Sung Thị M , sinh năm 1943. Chỗ ở hiện nay: Bản P, xã P, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Vợ: Chá Thị T , sinh năm 1972. Có 07 người con, lớn nhất sinh năm 1993; nhỏ nhất năm 2006. Chỗ ở hiện nay: Bản Pù Đứa, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

Bị cáo có sử dụng trái phép chất ma túy. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 17/12/2019, chuyển tạm giam ngày 23/12/2019 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Ngưi phiên dịch cho bị cáo: Lâu Văn P , sinh năm 1987 Địa chỉ: Bản P, xã P, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Ngọc K - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 11/2019 bị cáo một mình đến bản Piềng Khạy (Lào), tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi bị cáo gặp một người đàn ông, dân tộc Thái (không biết là người Thái Lào hay Việt Nam) cũng không biết họ, tên. bị cáo hỏi mua với người này 500.000 đồng tiền ma túy nhưng người này nói không có, người này nói có thể đi mua giúp nên bị cáo đã đưa cho người này 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Người này cầm tiền và bảo bị cáo chờ, một lúc sau thì thấy người này quay lại và đưa cho bị cáo một túi nilon màu hồng chứa hồng phiến (ma túy tổng hợp), bị cáo nhận số ma túy nhưng không kiểm đếm lại, đồng thời bọc thêm một lớp nilon màu đen nữa rồi quay về nhà theo đường cũ.

Khoảng 18 giờ, ngày 17/12/2019 có Lò Văn H , sinh năm 2001, ở bản Pọng, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát là người nghiện ma túy đến nhà bị cáo chơi và xin bị cáo một viên hồng phiến. bị cáo đang sẵn có hồng phiến nên đã cho H một viên để sử dụng. H mang ra phía ngoài nhà sử dụng, bị cáo cất số ma túy còn lại vào túi quần đùi đang mặc (không để ý đến H đang làm gì), ngay sau đó thì bị lực lượng Công an huyện Mường Lát vào nhà kiểm tra và bắt quả tang thu số ma túy bị cáo vừa cất trong túi quần đùi đang mặc và thu giữ toàn bộ tang vật còn lại.

Tại bản kết luận giám định số: 268/PC09 ngày 23/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- 119 (một một chín) viên nén hình trụ tròn, màu đỏ, trên bề mặt ký hiệu chữ “WY” của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 11,508g (mười một phẩy năm không tám gam) loại: Methamphetamine.

- 02 (hai) viên nén hình trụ tròn, màu xanh, một mặt ký hiệu chữ “A”, mặt còn lại ký hiệu chữ “YI” của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,197g (không phẩy một chín bảy gam), loại: Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 08/CT-VKS-MT ngày 01/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luận và luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải và công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1 điều 51; Điểm g khoản 2 điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Về hình phạt: Tuyên Xử bị cáo từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm nghề trồng trọt, là hộ nghèo lại nghiện chất ma túy, nên không có tính thực thi.

Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bị cáo được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình và khai nhận, biết rõ hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật và bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do bản thân bị nghiện chất ma túy, không kìm chế được bản thân nên bán để kiếm lời lấy tiền mua ma túy sử dụng, bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.

Ý kiến người bào chữa: Người bào chữa đồng tình với quan điểm truy tố của VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Người bào chữa cho rằng: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn nên đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình và xã hội, bản thân trở thành công dân có ích.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất của khung hình phạt, để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo và bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng là 11,705 gam (mười một phẩy bảy không năm gam) Methamphetanine, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà Nước. Hiện nay ma túy đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội về tác hại của nó, ma tuý là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Với hành vi, tính chất vụ án, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo; Trọng lượng ma túy bị cáo tàng trữ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại các cơ quan tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của mỗi bị cáo thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét về hình phạt: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp và không ổn định, gia đình thuộc hộ nghèo. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy tang vật vụ án thu giữ của bị cáo còn lại sau khi giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Tang vật của vụ án hiện đang được bảo quản tại kho tang vật Chi cục THADS huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

[6] Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống trong vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ nghèo nên được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Các nhận định khác:

- Đối với người đàn ông ở Piền Khạy (Lào), bị cáo không biết tên, tuổi, việc người đàn ông đó mua ma túy giúp Đua lại diễn ra bên ngoài lãnh thổ Nước Việt Nam, cũng không có ai thấy hay biết ngoài người đàn ông này và bị cáo, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Lát không đủ căn cứ xác minh, xử lý.

- Đối với Lò Văn H , sinh năm 2001 ở bản Pùng, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát là người đã xin được 01 (một) viên hồng phiến với Thao Văn Đ sau đó sử dụng trong khu vực nhà Đ nhưng Đ không biết cũng không thấy. Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Lát đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP về lỗi xử dụng trái phép chất ma túy.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên: Bị cáo Thao Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Áp dụng: Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm g khoản 2 điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

Xử phạt: Hình phạt chính: 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ (17/12/2019). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về tang vật: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, ghi vụ Thao Văn Đ , được gián kín, niêm phong bởi các chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đ , Lê Minh T , Vũ Chí D và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Phong bì niêm phong còn nguyên vẹn.

Vật chứng kể trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số 04/QĐ-VKS-ML, ngày 01/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng số 17/TV-CCTHADS ngày 01/4/2020 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát.

Về án phí: Áp dụng điều 135, điều 136 BLTTHS; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên: Miễn tiền án phí HSST cho bị cáo .

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ điều 331, điều 333 và điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai; có mặt bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 07/2020/HS-ST

Số hiệu:07/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;