Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 420/2021/TLST- HS ngày 14 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 19 tháng 8 năm 1985 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nơi thường trú: khối 1, phường C, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T và bà: Võ Thị N; Vợ: Vi Thị L, sinh năm 1992; Con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2021;

Tiền sự: Không;

Tiền án:

[1] Ngày 30/9/2015, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 23 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ra trại ngày 25/3/2017.

[2] Ngày 27/3/2019, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 21 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ra trại ngày 11/10/2020.

Nhân thân:

[1] Ngày 25/6/2007, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ra trại ngày 24/11/2008.

[2] Ngày 21/3/2014, công an thành phố Vinh xử phạt hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích” theo quyết định xử phạt số 139 ngày 21/3/2014.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2021 đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 01/10/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Đức H gọi điện cho Vũ Văn Đ (Trú ở khối T, phường H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) xin ma túy đá sử dụng, thì Đ đồng ý cho và hẹn H đến chân cầu thang chung cư C6 Quang Trung, thuộc khối 6, phường Quang Trung, thành phố Vinh lấy ma túy. H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Atila BKS 37N7-4938 đến địa điểm trên thì thấy có 01 gói Polyetylen màu trắng được để bên cạnh một thùng xốp màu trắng. H cầm gói ma túy bỏ vào túi quần phía trước bên phải, chuẩn bị đi về thì bị tổ công tác Công an phường Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ ở H gồm: 01(một) bao Polyetylen màu trắng, trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại Iphone 6S Plus màu hồng trong có số Sim 0961198583; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu xanh trong có số sim 0904004034; xe mô tô nhãn hiệu Atila BKS 37N7-4938. Tổ công tác đưa H cùng tang vật về trụ sở, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 1370/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 08/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Đức H gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 0,175 gam (Không phẩy một trăm bảy mươi lăm gam)”.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đức H khai gói ma túy bị thu giữ là của Vũ Văn Đức cho H để sử dụng. Căn cứ lời khai của H, ngày 13/10/2021 cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Vinh đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ ở khối T, phường H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, thu giữ của Đức 3,870 gam ma túy Ketamine. Quá trình làm việc, Đ khai nhận hành vi cất giấu ma túy Ketamine để sử dụng, nhưng không thừa nhận đã cho H gói ma túy trên nên không đủ căn cứ để xử lý. Hiện Đ đã bị khởi tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ở một vụ án khác theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 366 ngày 22/10/2021 và Quyết định khởi tố bị can số 685 ngày 22/10/2021.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Đức H đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Bản Cáo Trạng số 09/CT-VKS-TPV ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố luận tội tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Đức H từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy ma túy đã được niêm phong dán kín; Tịch thu hóa giá nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S plus màu hồng.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức H hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 22 giờ 30 phút ngay 01/10/2021, tại khu vực chân cầu thang chung cư C6 Quang Trung, thuộc khối 6, phường Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Đức H đang có hành vi tàng trữ trái phép 01(Một) gói ma túy (Mathemphetamine) có khối lượng 0,175 gam (Không phẩy một trăm bảy mươi lăm gam), mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, phát hiện, bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo đã có 02 tiền án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, lần này phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố bị cáo Nguyễn Đức H theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2]. Xét tính chất vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án, đã được cải tạo giáo dục, nhận thức được tác hại do ma túy mang lại cho con người và xã hội nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà còn tiếp tục phạm tội về ma túy, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính là phạt tù còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[2.4]. Về xử lý vật chứng: Ma túy là vật cấm lưu hành, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh thu giữ của Nguyễn Đức H do H sử dụng làm phương tiện liên lạc xin ma túy nên cần tịch thu hóa giá nộp vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S plus màu hồng không liên quan đến hành vi phạm tội cần tuyên trả lại cho bị cáo.

Chiếc xe máy nhãn hiệu Atila BKS 37N7-4938 mà H sử dụng làm phương tiện phạm tội, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị N (chị gái H), sinh năm 1977, trú ở khối 1, phường C, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, cho H mượn để đi. Tuy nhiên do chị N không biết H sử dụng xe để đi lấy ma túy, nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh đã trả lại cho chị N theo đúng quy định pháp luật.

[2.5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Đức H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/10/2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy ma túy trong phong bì thư đã được niêm phong dán kín; Tịch thu hóa giá nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh.

Tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Đức H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S plus màu hồng.

Vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK 2022/55 ngày 11/01/2022.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;