Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 02 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2022/HSST, ngày 20 tháng 01 năm 2022; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HS, ngày 16/02/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn C; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 11/11/1986; tại huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Văn L và bà Lê Thị H; Vợ: Lê Thị V; con: 02 đứa, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2019; anh chị em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ 02; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/11/2021, đến ngày 26/11/2021 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Lương Văn A, sinh năm: 1975. Địa chỉ: Thôn X, xã Sơn G, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/11/2021, Phan Văn C, sinh năm 1986, trú tại thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh một mình xin đi nhờ xe của một người dân đi từ nhà đến đoạn đường giao nhau với đường mòn H, thuộc thôn 4, xã S để tìm người mua ma túy về sử dụng. Tại đoạn đường này C xuống xe và ngồi chờ ở đó được một lúc C thấy có một người đàn ông quen mặt (trước đây đã từng sử dụng ma túy cùng với C), nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể điều khiển xe máy Wave an pha màu đen (không nhớ biển kiểm soát) đi qua, nên C gọi lại và hỏi mua 300.000đồng ma túy thì người này đồng ý và nói C chờ ở đó. Khoảng 10 phút sau, người đàn ông này quay lại đưa cho C một vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu T, màu vàng, không có nắp đậy, bên trong có 01 gói ni lông màu đen đựng 04 viên hồng phiến. C trả tiền cho người này rồi cầm vỏ bao thuốc lá đựng ma túy đi bộ về phía cánh đồng thuộc xã S để tìm địa điểm sử dụng ma túy. Đến khoảng 13 giờ 45 phút cùng ngày, C đi đến khu di tích Thánh giá thuộc thôn 4, xã S, huyện H, C nhặt được 01 chai nhựa trong suốt, trên thân chai có đục lỗ và gắn một tờ tiền mệnh giá 1000đồng được cuộn tròn. Sau đó, C lấy 01 viên ma túy vừa mua ra sử dụng hết, số ma túy còn lại C cầm ở bàn tay trái. Lúc này, lực lượng chức năng tuần tra nên đã yêu cầu kiểm tra C, thì phát hiện trong bàn tay trái của Phan Văn C có 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu T, màu vàng, không có nắp đậy, bên trong có 01 gói ni lông màu đen đựng 03 viên màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY, cạnh vị trí C đang đứng có 01 chai nhựa trong suốt, trên thân chai được gắn một đoạn ống bằng tờ tiền mệnh giá 1.000đồng được cuộn tròn và 01 chiếc bật lửa gas bằng nhựa màu đỏ.

* Tại Bản kết luận giám định số 16/GĐMT-PC09 ngày 26/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Tĩnh, kết luận:

- Các viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 0,2664 gam.

Vật chứng vụ án: 01 phong bì thư được dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Phan Văn C, bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói và 0,1787 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu T, màu vàng, không có nắp đậy; 01 chai nhựa trong suốt, trên thân chai được đục lỗ; 01 chiếc bật lửa gas màu đỏ; 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng được cuộn tròn.

Các vật chứng nêu trên, đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKS-HS, ngày 20 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Phan Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù về tộii tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng được cuộn tròn.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Phan Văn C, bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói và 0,1787 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu vàng, không có nắp đậy; 01 chai nhựa trong suốt, trên thân chai được đục lỗ; 01 chiếc bật lửa gas màu đỏ.

Bị cáo Phan Văn C thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Người chứng kiến anh Lương Văn A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không có lý do. Bị cáo và đại diện Viện kiểm sát không yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của anh A không ảnh hưởng đến quá trình làm sáng tỏ diễn biến trong vụ án (Anh A đã có lời khai trong quá trình điều tra) nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người chứng kiến anh Lương Văn A.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Viện kiểm sát nhân dân huyện H quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phan Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ; phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định Phan Văn C mua 0,2664 gam Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ, khi con người sử dụng sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển lành mạnh của nòi giống con người, thế nhưng để thỏa mãn cơn nghiện cho bản thân, bị cáo bất chấp pháp luật tàng trữ số lượng ma túy đã nói trên. Hành vi đó thể hiện sự táo bạo và liều lĩnh, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xét xử bị cáo một mức án đủ nghiêm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần.

[7] Đối với người đàn ông bán ma túy cho C, do C không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, quá trình điều tra cơ quan chức năng không có căn cứ để điều tra, kết luận nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

[9] Về vật chứng vụ án:

- 01 Tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng là số tiền bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước là phù hợp.

- 0,1787 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu T, màu vàng, không có nắp đậy; 01 chai nhựa trong suốt, trên thân chai được đục lỗ; 01 chiếc bật lửa gas màu đỏ là các vật nhà nước cấm lưu hành, vật không còn giá trị sử dụng nên cần áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về áp dụng điều luật: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

2. Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Phan Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phan Văn C 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 23/11/2021).

3.Về Biện pháp Tư pháp:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng (Một ngàn đồng) được cuộn tròn.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Phan Văn C, bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói và 0,1787 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu T, màu vàng, không có nắp đậy; 01 chai nhựa trong suốt, trên thân chai được đục lỗ; 01 chiếc bật lửa gas màu đỏ.

(Đặc điểm các vật chứng nói trên như biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/01/2022).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Văn C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;