Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN KỲ - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2021/HSST, ngày 31/12/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đức T; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 16/4/1978 tại: huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm A, xã Đ, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang; Chỗ ở hiện nay: Xóm Đ, xã N, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Trần Xuân S, sinh năm: 1954 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1954; Vợ: Ngân Thị D, sinh năm: 1983, con: có 01 con sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 23/01/2013 bị Phòng CSĐT tội phạm về TTXH Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính số tiền 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) về hành vi đánh bạc (Đánh lô, đề). Đã chấp hành xong tiền phạt vào ngày 24/01/2013, đến nay đã được xóa tiền sự.

Ngày 01/02/2013 bị Phòng CSĐT tội phạm về TTXH Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) về hành vi đánh bạc (Đánh lô, đề). Đã chấp hành xong tiền phạt vào ngày 04/02/2013, đến nay đã được xóa tiền sự.

Ngày 15/01/2014 bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) về hành vi đánh bạc (Đánh lô, đề). Đã chấp hành xong tiền phạt vào ngày 17/01/2014, đến nay đã được xóa tiền sự.

Ngày 08/4/2014 bị Phòng CSĐT tội phạm về TTXH Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) về hành vi đánh bạc (Đánh lô, đề). Đã chấp hành xong tiền phạt vào ngày 23/4/2014, đến nay đã được xóa tiền sự.

Ngày 04/9/2014 bị Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng (Bảy trăm năm mười nghìn đồng) về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Chưa chấp hành xong tiền phạt nhưng đến nay đã hết thời hiệu xử phạt.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Kỳ từ ngày 31/10/2021 đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1952. Trú tại: Xóm B, xã C, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 31/10/2021, Trần Đức T xin đi nhờ xe người đi đường đến thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An để mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực bến xe thuộc khối 2, thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ, Trần Đức T gặp người đàn ông tên H (T không biết lý lịch, địa chỉ cụ thể). Biết H cũng là người nghiện ma túy nên Trần Đức T hỏi và nhờ H mua hộ ma túy thì H đồng ý. Sau đó Trần Đức T đưa cho H 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), H cầm tiền và nói Trần Đức T đứng chờ. Khoảng 30 phút sau, H quay lại đưa cho Trần Đức T 01 (Một) đoạn ống hút nhựa màu tím, dán kín hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng, Trần Đức T biết đó là chất ma túy nên cất dấu vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người rồi đi bộ theo hướng đường Hồ Chí Minh về xã N, huyện Tân Kỳ để tìm địa điểm sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 55 phút cùng ngày, khi Trần Đức T đang đi bộ trên đường Hồ Chí Minh thuộc Xóm B, xã C, huyện Tân Kỳ thì bị Tổ công tác Công an huyện Tân Kỳ phối hợp với Công an xã C yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Trần Đức T đã tự nguyện lấy đoạn ống hút nhựa màu tím, bên trong chứa chất ma túy ra giao nộp nên Tổ công tác Công an huyện Tân Kỳ đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Chiều ngày 31/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Kỳ lập hội đồng mở niêm phong cân xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niệm phong lại. Sau khi loại bỏ bao bì, số chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Trần Đức T có khối lượng 0,18g (Không phẩy mười tám gam). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Kỳ lấy 0,125g (Không phẩy một trăm hai mươi lăm gam) chất tinh thể rắn màu trắng (nghi là Methamphetamine) gửi đi giám định. Số chất chất tinh thể rắn màu trắng còn lại có khối lượng 0,055 g (Không phẩy không trăm năm mươi lăm gam) được niêm phong trong 01 (Một) phong bì thư có chữ ký của Trần Đức T, người chứng kiến cùng các thành viên tham gia niêm phong.

Bản kết luận giám định số 1459/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 04/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Trần Đức T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Trần Đức T có khối lượng là 0,18 g (Không phẩy mười tám gam).

Vật chứng của vụ án: 01 (Một) phong bì thư số 02 có kích thước 12x18cm, xung quanh có viền xanh đỏ, trước đề chữ “Phong bì thư số 02 đựng vỏ bao bì và chất bột tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy còn lại 0,055g (Không phẩy không trăm năm mươi lăm gam) sau khi đã lấy mẫu gửi đi giám định, được phát hiện thu giữ của Trần Đức T còn lại”. Trên mép dán của bao phong bì thư được niêm phong bằng chữ ký của Trần Đức T, người chứng kiến, cùng các thành viên tham gia niêm phong và hình dấu giáp lại của Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Kỳ.

Tại bản Cáo trạng số: 09/CT-VKS-TK ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ đã truy tố bị cáo Trần Đức T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

a. Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Đức T phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS, xử phạt Trần Đức T mức án từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 31/10/2021.

* Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

b. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy: 0,055g (Không phẩy không trăm năm mươi lăm gam) ma túy (Methamphetamine) còn lại sau khi đã lấy mẫu gửi đi giám định. Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Tân Kỳ và Chi cục THADS huyện Tân Kỳ.

c. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Đức T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Đức T có lời nói sau cùng: Bị cáo bị truy tố và xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Bị cáo thật sự rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để bị cáo sơm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Kỳ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Trần Đức T đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đúng như nội dung của bản cáo trạng đã nêu và quy kết, không có khai nại gì khác. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, được lập vào ngày 31/10/2021, phù hợp với vật chứng, lời khai của người chứng kiến, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đầy đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 14 giờ 55 phút, ngày 31/10/2021, tại đoạn đường Hồ Chí Minh thuộc khối 4, thị trấn Tân kỳ, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, Tổ công tác Công an thị trấn Tân Kỳ phối hợp với Công an huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An bắt quả tang Trần Đức T đang tàng trữ 0,18g (Không phẩy mười tám gam) ma túy (Methamphetamine), nhằm mục đích sử dụng.

Tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 5 năm;

a) … c) Methamphetamine, …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy: Hành vi tàng trữ 0,18g (Không phẩy mười tám gam) ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích sử dụng của Trần Đức T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý đối với các loại chất ma túy. Tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian gần đây có xu hướng gia tăng, không những gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an trong xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân mà còn trực tiếp làm suy kiệt giống nòi, gây ra hiểm họa HIV-AIDS và là tác nhân của nhiều loại tệ nạn, tội phạm khác. Trần Đức T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy của mình là trái pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm, vì vậy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung là thật sự cần thiết.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Bố bị cáo là Trần Xuân Sành được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,… tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, qua kết quả xác minh tại địa phương, xét thấy bị cáo không tài sản riêng, thu nhập từ lao động làm thuê tự do, không ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Trong vụ án này, theo lời khai của Trần Đức T thì nguồn gốc số ma túy mà Trần Đức T tàng trữ là mua của một người đàn ông tên Hà tại khu vực bến xe thuộc khối 2, thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Quá trình điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người đàn ông trên là ai. Vì vậy, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[8] Về vật chứng vụ án, gồm:

- 01 (Một) phong bì thư có đựng vỏ bao bì và số ma túy (Methamphetamine) còn lại (sau khi đã lấy mẫu giám định) có khối lượng 0,055g (Không phẩy không trăm năm mươi lăm gam) ma túy (Methamphetamine) thu giữ của Trần Đức T, đây là chất Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, sử dụng, nên áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS để tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo Trần Đức T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo: Trần Đức T phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2- Về điều luật áp dụng:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS Xử phạt: Trần Đức T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo: ngày 31/10/2021.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, tiêu hủy: 0,055g (Không phẩy, không trăm năm mươi lăm gam) ma túy (Methamphetamine) còn lại sau giám định và vỏ bao bì niêm phong trong phong bì thư.

Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 31/12/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Kỳ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Kỳ.

4- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Đức T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Kỳ - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;