Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Duy H, sinh năm 1994, tại Lâm Đồng; nơi đăng ký HKTT: Thôn Q, xã QL, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Số 10 H, phường 4, thành phố ĐL, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Mười (đã chết), bà Đoàn Thị Hồng Vân; vợ, con: Chưa.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 28/5/2021, tạm giam từ ngày 03/6/2021; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện D. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Ông Phạm Đình  K, sinh năm 1980; cư trú tại: Tổ dân phố Lang Biang, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Ông Lê Quốc T, sinh năm 1984; cư trú tại: Số 42/5 Hà Huy Tập, phường 3, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Ông Phan Hồng C, sinh năm 1984; cư trú tại: Đường 19/5, tổ dân phố Lang Biang, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Ông Đặng Tuấn Anh P, sinh năm 1990; cư trú tại: Số 41B, phường 7, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 27/5/2021, Nguyễn Duy H là người nghiện ma tuý đã đến đường hẻm tại đường Hai Bà Trưng, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng mua 02 gói ma tuý và cất vào trong bóp mang theo để sử dụng. Buổi tối cùng ngày, H dùng xe máy của H chở Phạm Đình  K từ thành phố Đà Lạt về nhà  K tại thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng và ngủ lại nhà  K. Đến tối ngày 28/5/2021, khi H,  K đang ở nhà  K thì lần lượt có Phan Hồng C, Lê Quốc T và Đặng Tuấn Anh P đến. Tại đây, P lấy ma tuý của P và cả 05 người cùng sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 00 phút, Công an huyện D bắt quả tang H,  K, Cư, T, P đang sử dụng chất ma tuý, Hoà bỏ 01 chiếc bóp bên trong cất giấu 02 gói ma tuý của H ra ghế salon thì bị Công an phát hiện và thu giữ.

Quá trình bắt quả tang, CQĐT đã tạm giữ và niêm phong: 02 (hai) túi nylon, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 bình tự chế bằng nhựa và 01 bình thuỷ tinh dùng để hút ma tuý; 01 bóp da màu nâu có in chữ MONBLANC.

Kết luận giám định số 540/GĐ-PC09 ngày 02/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: mẫu tinh thể đựng trong hai gói nylon được được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 1,0537g (một phảy không năm ba bảy gam), loại Methamphetamine là chất ma tuý nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Bản cáo trạng số 25/CT – VKSLD ngày 10/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Duy H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù; tịch thu tiêu hủy vật chứng theo biên bản bàn giao giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện D.

Bị cáo đồng ý với cáo trạng truy tố bị cáo và không có khiếu nại gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xử mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.

[2]. Phân tích những chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo; đánh giá tính chất, mức độ hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy H khai nhận: Do nghiện ma túy, vào chiều ngày 27/5/2021, bị cáo đến đường hẻm tại đường Hai Bà Trưng, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng mua 02 gói ma tuý, mục đích là sử dụng, sau đó bị cáo về nhà Phạm Đình  K ở thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng ngủ lại với  K. Đến tối ngày 28/5/2021, có Phan Hồng C, Lê Quốc T và Đặng Tuấn Anh P đến. Tại đây, P lấy ma tuý của P và cả 05 người cùng sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 00 phút, Công an huyện D bắt quả tang H,  K, Cư, T, P đang sử dụng chất ma tuý. Khi Công an vào thì H bỏ chiếc bóp bên trong có 02 gói ma tuý của Hoà ra ghế salon thì bị Công an phát hiện và thu giữ.

Theo Kết luận giám định số 540/GĐ-PC09 ngày 02/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: mẫu tinh thể đựng trong hai gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 1,0537g (một phảy không năm ba bảy gam), loại Methamphetamine là chất ma tuý nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như ni dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Do đó, đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Duy H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích là để sử dụng là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến sức khỏe bản thân, gây mất an ninh trật tự tại địa P và là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội; do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian tự cải tạo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Theo bị cáo khai là mua số ma túy trên của một người lạ, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện D không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên đã tách ra để xử lý khi có đủ căn cứ.

Đối với hành vi sử dụng ma túy của bị cáo,  K, Cư, T và P tại căn nhà số nhà 5/147 thuộc sở hữu của ông Lê Văn Dũng (ông Dũng không biết việc bị cáo và những đối tượng liên quan sử dụng ma túy) thì đã bị Công an huyện D xử phạt vi phạm hành chính mỗi bị cáo 750.000 đồng. Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của các đối tượng liên quan; tuy nhiên Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo.

[3]. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì đựng bao gói vật chứng và 01 phong bì đựng hoàn lại mẫu vật là 0,7048 gam ma túy, loại methamphetamin (mẫu hoàn lại sau giám định) – bên ngoài có chữ ký của cán bộ niêm phong và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng.

- 02 bình tự chế dùng để sử dụng ma túy; 01 bóp da màu nâu (được để trong hộp tròn bằng kim loại, có nắp hộp, có dán giấy niêm phong của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện D).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra – Công an huyện D và chi cục Thi hành án dân sự huyện D ngày 10/11/2021).

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 5 năm 2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì đựng bao gói vật chứng và 01 phong bì đựng hoàn lại mẫu vật là 0,7048 gam ma túy, loại methamphetamin (mẫu hoàn lại sau giám định) – bên ngoài có chữ ký của cán bộ niêm phong và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng.

- 02 bình tự chế dùng để sử dụng ma túy; 01 bóp da màu nâu (được để trong hộp tròn bằng kim loại, có nắp hộp, có dán giấy niêm phong của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện D).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra – Công an huyện D và chi cục Thi hành án dân sự huyện D ngày 10/11/2021) - (BL168).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Duy H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;