Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 05/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/01/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 141/2022/TLST-HS ngày 14/12/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/QĐXXST-HS ngày 26/12/2022 đối với bị cáo:

TRẦN TRỌNG Q, sinh năm 1988, tại Đ; Nơi cư trú: Khu phố 03, phường X, thành phố L, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn B, sinh năm: 1953 (đã chết) và bà: Đoàn Thị Kim L, sinh năm: 1965; Có vợ: Tạ Lê Thị V, sinh năm: 1987 (đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm:

2018, con nhỏ sinh năm: 2013; Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 30/8/2022, đến ngày 08/9/2022 bị áp dụng biên pháp ngăn chặn tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1989; nơi cư trú: khu phố 2, phường X, thành phố L, tỉnh Đ. (vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Duy L, sinh năm 1992; nơi cư trú: 102 H, phường X, thành phố L, tỉnh Đ. (vắng mặt)

* Người làm chứng: Chị Hà Thư H, sinh năm 2002. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Trọng Q bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2015, loại ma túy sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine) và Heroin.

Vào khoảng 08 giờ ngày 30/8/2022, Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu trắng - đỏ, biển kiểm soát 60F2-xxxx đến khu vực đường D, thuộc khu phố B, phường B, thành phố L, tỉnh Đ gặp 01 người đàn ông tên P (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 bịch ma túy đá với giá 100.000 đồng. Tiếp đó, Q đến khu vực đường N, thuộc khu phố 3, phường X, thành phố L, tỉnh Đ gặp 01 người đàn ông tên P (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, bên trong chứa Heroin với giá 200.000 đồng. Cách thức bị cáo Q mua ma túy của P và P đều giống nhau, khi hỏi mua thì P và Ph lấy tiền trước và chỉ chỗ cho Q lấy ma túy chứ không đưa trực tiếp. Đến 11 giờ cùng ngày, Q điều khiển xe mô tô trên mang theo 01 bịch ma túy đá cất giấu trong túi áo khoác bên phải và 01 đoạn ống hút nhựa chứa Heroin cầm trong lòng bàn tay trái đi đến khu vực nghĩa địa B, thuộc khu phố 2, phường X, thành phố L, tỉnh Đ để tìm chỗ sử dụng thì bị Công an thành phố L kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ và tiến hành niêm phong toàn bộ số ma túy trên theo quy định pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 1846/KL-KTHS ngày 06/9/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận:

Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu mẫu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1407 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu chất màu trắng (ký hiệu mẫu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0658 gam, loại: Heroin.

Tại bản cáo trạng số: 124/CT-VKS-HS ngày 29/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Trần Trọng Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 - Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Trọng Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Về hình phạt: đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Trần Trọng Q từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

* Về vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 1846/KL-KTHS, hiện đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố L theo quy định.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu trắng - đỏ, biển kiểm soát: 60F2-xxxx, quá trình điều tra xác định đây là xe của chị Nguyễn Thị Hồng N (sống chung như vợ chồng với bị cáo Q, không đăng ký kết hôn), Q mượn xe đi uống thuốc Methadone, chị N không biết Q sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị Hồng N nên không xem xét.

* Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về lo cho mẹ và con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện:

Vào khoảng 08 giờ ngày 30/8/2022, tại khu vực nghĩa địa B, thuộc khu phố 2, phường X, thành phố L, tỉnh Đ, Công an thành phố L bắt quả tang Trần Trọng Q có hành vi tàng trữ 0,1407 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,0658gam ma túy loại Heroin, mục đích để sử dụng.

Trong vụ án này, thu giữ 02 chất ma túy là Methamphetamine và Heroin được quy định trong cùng 01 điểm thuộc các khoản của Điều 249 Bộ luật hình sự nên áp dụng Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số Điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tổng khối lượng các chất ma túy là 0,1407 + 0,0658 = 0,2065 gam. Đối chiếu tổng khối lượng các chất ma túy được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Như vậy, hành vi nêu trên thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Trọng Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý ma túy. Ma túy là chất gây nghiện, người nghiện ma túy bị ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần. Tội phạm ma túy còn là nguyên nhân gây ra các tội phạm khác nên Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng… trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần áp dụng một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời răn đe và phòng ngừa chung là cần thiết.

[4] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có cha là người có công với cách mạng nên được xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng:

- Đối với 01 phong bì niêm phong số 1846/KL-KTHS không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu trắng - đỏ, biển kiểm soát:

60F2-xxxx, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị Hồng N nên không xem xét.

[6] Đối với đối tượng tên “P” và tên “P” Q không biết nhân thân lai lịch cụ thể, là những người đã bán ma túy cho Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : bị cáo Trần Trọng Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Xử phạt : Bị cáo Trần Trọng Q 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/8/2022.

* Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 1846/KL-KTHS không còn giá trị sử dụng.

(Số vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/12/2022) * Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;