Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 05/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2022/TLST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST- HS, ngày 13 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Thị Như A, sinh ngày 19 tháng 02 năm 1969, tại tỉnh V; nơi cư trú: Số 75/6, Khóm 4, thị trấn L, huyện L, tỉnh V; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thắng T (đã chết) và bà Lê Thị N (đã chết); anh, chị em ruột: 03 người (lớn nhất sinh năm 1963, nhỏ nhất là bị cáo); chồng là Tăng Tiến T1 (đã ly hôn), có 02 con (lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 2005). Tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân bị cáo không có án tích, không bị xử lý kỷ luật, đã bị xử lý vi phạm hành chính đã được xóa. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09 tháng 9 năm 2022 đến nay và hiện có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Hồng N1, sinh năm 1984 (vắng mặt) Trú tại: Tổ 1, ấp K1, phường K2, thị xã T2, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/9/2022 bị cáo Trần Thị Như A điều khiển xe môtô nhãn hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 61E1-xxxxx từ nhà xuống Nhà trọ Q, thuộc ấp T3, xã T4, huyện M để gặp người bạn có tên thường gọi là S (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể) đã hẹn trước đó để S đưa tiền cho bị cáo Như A đi mua ma túy về sử dụng. Đến nơi thì S đã đứng đợi sẵn ở cửa nhà trọ để đưa cho bị cáo Như A 500.000 đồng, kêu bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, còn S thì đi mua cơm để cả hai cùng ăn. Sau đó bị cáo điều khiển xe đi mua ma túy, đến 18 giờ 30 phút cùng ngày thì bị cáo đến cây xăng Số 1 gần cổng chào huyện M, tỉnh V gặp một thanh niên lạ mặt (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể), bị cáo hỏi mua ma túy đá với số tiền 500.000 đồng. Sau khi nhận đủ tiền, người này trực tiếp đưa cho bị cáo 02 (hai) bịch nylon hàn kín (gồm một bịch lớn và một bịch nhỏ) được cuốn lại bằng băng keo màu đen bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá rồi bỏ đi. Bị cáo Như A nhận hai bịch nylon nói trên bằng tay phải rồi dán vào bên dưới lòng bàn chân trái của bị cáo nhằm cất giấu; sau đó, bị cáo chạy xe về nhà trọ Q. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì bị cáo về tới nhà trọ Q, bị cáo đậu xe ngoài nhà xe rồi đi bộ đến phòng trọ số 7 thì lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, thu giữ và niêm phong 02 (hai) bịch nylon hàn kín (gồm một bịch lớn và một bịch nhỏ) được cuốn lại bằng băng keo màu đen bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá dưới lòng bàn chân trái của bị cáo.

Tại Kết luận giám định số: 643/KL-KTHS ngày 12/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V kết luận về đối tượng giám định như sau: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 02 (hai) bịch nylon được niêm phong trong bao thư gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2986 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 15/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra Lệnh tạm giam đối với bị cáo Như A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túyquy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về vật chứng thu giữ: Chất ma túy loại Methamphetamine sau khi giám định còn lại có khối lượng 0,2215 gam (đã được niêm phong); 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 61E1-xxxxx và 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, có số IMEI 358625109135964, bên trong có gắn thẻ sim có số điện thoại 0394.945.xxx.

Đối với người thanh niên lạ mặt (không rõ họ tên và địa chỉ) bán ma túy cho Như A và người bạn tên S (không rõ họ tên và địa chỉ); hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được tiến hành xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKS.HMT, ngày 22/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Trần Thị Như A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Thị Như A đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo thừa nhận nội dung Cáo trạng truy tố hành vi của mình là hoàn toàn đúng sự thật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, các Điều 38, 46, 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; các Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thị Như A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định, tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 61E1-xxxxx và 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, có số IMEI 358625109135964, bên trong có gắn thẻ sim có số điện thoại 0394.945.xxx; về án phí buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng bị cáo Trần Thị Như A tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện tại địa bàn huyện M, tỉnh V nên Tòa án nhân dân huyện M xét xử là đúng theo quy định tại Điều 269 của Bộ luật tố tụng hình sự. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Như A thừa nhận: Vào khoảng 17 giờ, ngày 09/9/2022 trước phòng trọ số 7 của Nhà trọ Q, thuộc ấp T3, xã T4, huyện M, tỉnh V, bị cáo Trần Thị Như A đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên bị lực lượng Công an huyện M phát hiện thu giữ chất bột màu trắng theo kết luận giám định chất ma túy là loại Methamphetamine, có khối lượng 0, 2986 gam.

Xét thấy, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố bị cáo Trần Thị Như A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng pháp luật.

Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Thị Như A tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với nội dung bản cáo trạng và lời buộc tội của vị đại diện Viện kiểm sát tại toà, phù hợp với bản kết luận điều tra mà còn phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trần Thị Như A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đối với người thanh niên lạ mặt (không rõ họ tên và địa chỉ) bán ma túy cho Như A và người bạn tên S (không rõ họ tên và địa chỉ); hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được tiến hành xử lý sau.

[2.2] Xét tính chất, mức độ hành vi do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy mà còn là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội khác. Như chúng ta đều biết, ma túy là chất hướng thần; người sử dụng sẽ bị kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, người sử dụng nhiều sẽ gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, dễ kích động thần kinh theo hướng tiêu cực, làm suy giảm khả năng lao động, dễ dẫn đến những tệ nạn xã hội khác như: trộm cắp, cướp giật hoặc là một trong những nguyên nhân dân đến căn bệnh HIV. Nhà nước thống nhất quản lý và nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mọi hành vi vi phạm đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu bản thân bị cáo lại mua ma túy một cách trái phép về trữ sẵn để sử dụng cho thấy ý thức coi thường pháp luật, nhất là trong tình hình tội phạm ma túy ngày càng gia tăng và cần được ngăn chặn kịp thời hiện nay. Vì thế, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có nhân thân tốt; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2.4] Về hình phạt bổ sung: Theo tài liệu, chứng cứ và lời khai bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng: Chất ma túy loại Methamphetamine sau khi giám định còn lại có khối lượng 0,2215 gam là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 61E1-xxxxx và 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, có số IMEI 358625109135964, bên trong có gắn thẻ sim có số điện thoại 0394.945.xxx liên quan trực tiếp đến vụ án nên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Như A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Phạt bị cáo Trần Thị Như A 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09 tháng 9 năm 2022.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Thị Như A.

2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy, loại Methamphetamine sau khi giám định còn lại có khối lượng 0,2215 gam (đã niêm phong) và một thẻ sim có số điện thoại 0394.945.xxx; tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 61E1-xxxxx và 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, có số IMEI 358625109135964 theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22 tháng 11 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M với Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh V.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án;

Buộc bị cáo Trần Thị Như A nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, tuyên án có mặt bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt; báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;