Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 26/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2020/TLST-HS, ngày 21 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2020 đối với:

1- Bị cáo Nông Trung T; tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 11 tháng 12 năm 1978 tại huyện T, Cao Bằng;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: xóm Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 11/12;

Chức vụ Đoàn thể, Đảng phái: Không có;

Con ông Nông Thanh Đ, sinh năm 1953; con bà Nông Thị T, sinh năm 1952;

Vợ: Đàm Ngọc L, sinh năm 1984; Con: Có một con sinh năm 2003;

Anh, chị, em ruột: Bị cáo có hai anh em, bị cáo là con thứ út trong gia đình;

Tiền án, tiền sự: không có;

Về nhân thân: Năm 2002 bị Tòa án nhân dân huyện T, Cao Bằng xử phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Năm 2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hòa An từ ngày 16/12/2019 đến ngày 14/3/2020 theo Lệnh tạm giam của Cơ quan CSĐT Công an huyện Hòa An, có mặt tại phiên tòa.

2- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nông Thanh Đ, sinh năm 1953.

Địa chỉ: xóm Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng. Có đơn xin xét xử vắng mặt và ủy quyền tham gia phiên tòa.

Người được ủy quyền: Bà Nông Thị T, sinh năm 1952.

Địa chỉ: xóm Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 40 phút, ngày 16/12/2019, Tổ công tác của Đội CSĐT tội phạm Kinh tế - Ma túy Công an huyện Hòa An đang làm nhiệm vụ tại khu vực D, thị trấn N, huyện H phát hiện 01 đối tượng có biểu hiện vi phạm pháp luật. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, qua kiểm tra đối tượng khai nhận tên là Nông Trung T, sinh năm 1978, trú tại xóm Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng, tiến hành kiểm tra xung quanh khu vực chỗ đứng của Nông Trung T khoảng 30cm phát hiện một gói giấy vệ sinh, bên trong có chứa hai gói nhỏ bằng giấy bạc màu trắng, bên trong các gói nhỏ có chứa chất bột màu trắng dạng cục vụn (theo lời khai của T tại hiện trường là Heroine của T vừa vứt ra khi gặp Công an). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đưa đối tượng và các vật chứng có liên quan về Công an huyện Hòa An để điều tra làm rõ. Cùng ngày Cơ quan CSĐT phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành cân xác định khối lượng chất một màu trắng mà T khai nhận là Heroine, kết quả: Toàn bộ chất bột màu trắng có khối lượng là 0,7559 gam (Không phẩy bẩy năm năm chín gam), đồng thời tách lấy mẫu vật tiến hành gửi giám định. Ngày 17/12/2019 tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nông Trung T tại xóm Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng nhưng không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến hành vi phạm pháp của Nông Trung T.

Tại kết luận giám định số 05/GĐMT ngày 25/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại cơ quan điều tra, Nông Trung T khai nhận số heroine bị bắt quả tang là của T, nguồn gốc heroine trên T mua vào ngày 16/12/2019 với một người đàn ông không quen biết tên tuổi, địa chỉ ở cổng sân vận động thành phố Cao Bằng với giá 700.000 đồng, nhằm mục đích để bản thân sử dụng. Khi đang trên đường về nhà thì bị bắt quả tang.

Cáo trạng số 04/Ctr - VKSHA ngày 17/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Nông Trung T ra trước Tòa án nhân dân huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Bị cáo khai nhận bản thân đã sử dụng trái phép chất ma túy từ lâu nhưng khi đi chấp hành án cai được, bị cáo tái nghiện từ năm 2018 do bị cáo bị bệnh phải uống thuốc thường xuyên, sức khỏe không đảm bảo nên mới sử dụng. Bản thân chưa bị lệ thuộc vào ma túy mỗi tuần bị cáo sử dụng khoảng 02 lần và bị cáo vẫn đang điều trị cai nghiện bằng cách uống thuốc Methadone và uống thuốc điều trị bệnh xã hội. Bị cáo khai việc bị cáo bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng với sự việc bị cáo đã đi mua ma túy ở thành phố Cao Bằng về để sử dụng. Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và bản Cáo trạng đã truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, không oan và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người được ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nông Thị T trình bày: Bà có mỗi quan hệ với bị cáo là mẹ đẻ, việc con trai của bà nghiện ma túy trước thời điểm bị bắt thì gia đình không biết, chỉ biết là T vẫn đang điều trị bằng thuốc Methadone. Trong vụ án này bị cáo bị thu giữ một chiếc xe máy BKS 11H1-…. đứng tên chủ sở hữu là chồng của bà là ông Nông Thanh Đ, đây là tài sản do vợ chồng bà tích cóp tiền mua được, chồng của bà mang tên chủ sở hữu , T không có đóng góp gì vào việc mua chiếc xe máy này. Bình thường T sử dụng chiếc xe máy này làm phương tiện đi lại để ra Trung tâm y tế huyện Hòa An uống thuốc. Sự việc ngày 16/12/2019 T sử dụng chiếc xe máy làm phương tiện để đi uống thuốc rồi mua ma túy về sử dụng thì gia đình không biết nên bà yêu cầu được trả lại chiếc xe máy để làm phương tiện đi lại cho gia đình.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện VKSND huyện Hòa An trình bày quan điểm luận tội giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nông Trung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 14 tháng đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ án Nông Trung T, mặt sau có chữ ký của đối tượng và thành phần tham gia niêm phong.

Đề nghị trả lại cho bị cáo số tiền 3.820.000 đồng đựng trong một phong bì thư được niêm phong do không liên quan đến hành vi phạm tội Đề nghị trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nông Thanh Đ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, màu cam, đen BKS 11H1-…, đã qua sử dụng, Tại phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Người được ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nông Thị Tranh không có ý kiến.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo mức án nhẹ nhất và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả những đồ vật không liên quan đến hành vi phạm tội cho gia đình bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo đã được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay. Lời khai phù hợp với biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu giữ trong quá trình điều tra, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 16/12/2019, sau khi uống thuốc cai nghiện Methadone ở Trung tâm y tế huyện Hòa An, bị cáo Nông Trung T đi xuống thành phố Cao Bằng mua được hai gói nhỏ Heroine có tổng khối lượng là 0,7559 gam với giá 700.000 đồng với mục đích mang về sử dụng cho bản thân. Khi đang trên đường quay về nhà đến khu vực D, thị trấn N, Hòa An thì bị Cơ quan Công an huyện Hòa An phát hiện bắt quả tang.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo đã từng bị kết án về hành mua bán trái phép chất ma túy nên bị cáo phải nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội; trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ma túy là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính mạng, sức khỏe con người, làm băng hoại nhiều giá trị chuẩn mực đạo đức trong đời sống nhân dân nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, coi thường pháp luật, bị cáo vẫn bất chấp thực hiện. Tại phiên tòa, việc bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An truy tố là có căn cứ.

[3]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo đã từng hai lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản và tội mua bán trái phép chất ma túy, mặc dù đã được xóa án tích nhưng Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo có nhân thân xấu Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự.

[4]. Về hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói chung và địa bàn huyện Hòa An nói riêng, tệ nạn ma túy đang gia tăng. Bị cáo là thanh niên có sức khoẻ, đang ở độ tuổi lao động để tạo ra của cải vật chất cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng chỉ vì ham chơi, sa vào nghiện hút ma tuý để thoã mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung đồng thời tạo điều kiện để bị cáo cách ly với chất ma tuý. Đồng thời đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đáp ứng được công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mà Đảng và Nhà nước đề ra [5]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, kinh tế khó khăn và không sở hữu tài sản gì lớn. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hòa An đã làm rõ và trả lại cho chủ sở hữu 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen vì không liên quan đến vụ án nên việc trả lại này không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án và đúng pháp luật.

Đối với 01 phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ án Nông Trung T, sinh năm 1978, HKTT: xóm Đ, thị trấn T, huyện T, Cao Bằng. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang ngày 16/12/2019”, mặt sau có chữ ký của đối tượng và thành phần tham gia niêm phong, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 3.820.000 đồng đựng trong một phong bì thư được niêm phong, xét thấy đây là số tiền không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ số tiền này để bảo đảm cho việc thi hành án.

Đối với 01 (một) xe mô tô BKS 11H1-…, nhãn hiệu YAMAHA, Sirius, màu cam, đen, đã qua sử dụng, xét đây là tài sản của bố đẻ của bị cáo là ông Nông Thanh Đ. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện để đi mua ma túy về sử dụng ông Đợi không biết nên xét thấy cần trả lại cho chủ sở hữu là hợp lý, do đó đề nghị của Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Về nguồn gốc số ma túy: Cơ quan cảnh sát điều tra không xác định được người đàn ông bán cho bị cáo số ma túy nêu trên ở thành phố Cao Bằng, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9]. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Các Điều 106, 136, 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố:

1. Bị cáo Nông Trung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nông Trung T 15 (Mười năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ, ngày 16/12/2019.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ án Nông Trung T, sinh năm 1978, HKTT: xóm Đ, thị trấn T, huyện T, Cao Bằng. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang ngày 16/12/2019”, mặt sau có chữ ký của đối tượng và thành phần tham gia niêm phong.

Trả lại cho bị cáo số tiền 3.820.000 đồng đựng trong một phong bì thư được niêm phong nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Trả lại cho ông Nông Thanh Đ, sinh năm 1953, trú tại: xóm Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, màu cam, đen BKS 11H1-…, số khung 1710JY244122, số máy E3T6E357620, xe đã qua sử dụng, (Vật chứng hiện nay đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa An theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 15 ngày 20/01/2020)

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nông Trung T phải chịu án hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2020/HS-ST

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;