Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 07/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 01 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 292/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 280/2019/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1982, tại tỉnh B. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số 28/17/24D, đường 9A, Khu phố 5, phường H1, quận B, Thành phố H (nhà đã bán từ năm 2010); chỗ ở: Nhà số 1054J, đường Q, Khu phố 3, phường T1, quận B, Thành phố H (không thường xuyên cư trú tại đây); nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông (không rõ) và bà Trần Thị U; có vợ và 01 con sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 30-8-2019 (tính theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường B2, quận B lập lúc 22 giờ 45 phút ngày 30-8-2019), tạm giam ngày 06-9-2019 “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Diệp Hoàng E, sinh năm 1994. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp K, xã V, huyện H, tỉnh B (hiện đang bị đưa đi cai nghiện bắt buộc) “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 45 phút ngày 30/8/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy-Công an quận B tuần tra đến trước nhà số 793, đường T, phường B2, quận B thì nhìn thấy anh Diệp Hoàng E đang điều khiển xe môtô biển số 52S4-xxxx chở phía sau Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ từ trong túi quần bên trái của T đang mặc 01 hộp nhựa màu đỏ, bên trong có 10 gói nylon chứa tinh thể không màu. Lúc đó, T cho biết là ma Ty loại “hàng đá” để sử dụng nên đưa T cùng vật chứng đến Công an phường B2 xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, T khai do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực ngã tư Gò Mây mua số ma túy này của người thanh niên tên Sơn Nhị (không rõ lai lịch) với giá 500.000 đồng để dành sử dụng và khi trên đường anh E chở T về nhà dùm thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Riêng anh Diệp Hoàng E không biết và liên quan gì đến số ma túy của T nên không bị xử lý Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận, do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực ngã tư GM mua 10 gói ma túy loại “hàng đá” của người thanh niên tên Sơn Nhị (không rõ lai lịch) với giá 500.000 đồng để dành sử dụng và khi trên đường anh Diệp Hoàng E chở bị cáo về nhà dùm thì bị Công an kiểm tra bắt giữ, anh E không biết và cũng không liên quan gì đến số ma túy của bị cáo nên nay bị cáo thừa nhận chỉ có một mình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về hàm lượng ma túy đã giám định và giải quyết vật chứng.

Bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 11 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận B, Thành phố H đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T ra trước Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,8948g, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm đến 03 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, còn về vật chứng thì đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc xe môtô biển số 52S4-xxxx và chiếc điện thoại di động hiệu infocus, giao trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu LV117, tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã được giám định.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Theo qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 21 giờ 45 phút ngày 30/8/2019, tại trước nhà số 793, đường T, Bình Trị Đông B, quận B. Bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi cất giữ 10 gói nylon chứa tinh thể không màu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố H thì, “Tinh thể không màu trong 10 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Nguyễn Văn T, các chữ ký Nguyễn Ngọc Tuấn (Điều tra viên), Nguyễn Ngọc Tiến (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường B2, quận B” gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,8948g, loại Methamphetamine”. Do đó, bị cáo đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định hàm lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Đối với người bán ma túy cho bị cáo tên Sơn Nhị, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét cho đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau là phù hợp. Riêng anh Diệp Hoàng E chỉ là người chở bị cáo về nhà dùm và không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên không bị xử lý là phù hợp.

[3] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với mức án tương xứng. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc xe môtô biển số 52S4-xxxx, số máy YDGZS152FMH-JA00007438, số khung RNDWCH1ND61R07438 của anh Diệp Hoàng E khai, xe do mua lại của người thanh niên không rõ lai lịch, việc mua bán không có làm làm giấy tờ và không có giấy đăng ký xe; qua xác minh, xe do anh Trần Quang Lập đứng tên chủ sở hữu, anh Lập đã bán xe trên cho người bạn tên Thanh (không rõ lai lịch); xe không có trong dữ liệu kho vật chứng và Cơ quan điều tra đã cho đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng không ai đến giải quyết nên trường hợp này được xem là tài sản không xác định được chủ sở hữu. Còn 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu infocus, số sim 093987xxxx của bị cáo có dùng liên lạc để mua ma túy nên cần tịch thu tất cả để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LV117 (không có sim) của bị cáo và không liên quan gì đến vụ án nên cần giao trả lại cho bị cáo. Đối với 01 gói niêm phong, bên trong chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc T (Điều tra viên), Nguyễn Ngọc T1 (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường B2, quận B, TP.Hồ Chí Minh là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng; 01 cái hộp nhựa màu đỏ dùng chứa ma túy nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[6] Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30-8-2019.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm: 01 chiếc xe môtô biển số 52S4-xxxx, số máy YDGZS152FMH-JA00007438, số khung RNDWCH1ND61R07438 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu infocus, số sim 093987xxxx. Giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LV117 (không có sim). Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói niêm phong, bên trong chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc T (Điều tra viên), Nguyễn Ngọc T1 (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường B2, quận B, TP.Hồ Chí Minh; 01 cái hộp nhựa màu đỏ.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận B đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số NK20/54TAM ngày 19/12/2019) - Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Diệp Hoàng E vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao           bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2020/HS-ST

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;