Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 02/2022/HS-ST NGÀY 06/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 01 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 201/2021/HSST ngày 17/12/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 201/2021/QĐXXST-HS ngày 24/12/2021 đối với bị cáo:

Trần Văn T , sinh ngày 20/12/1990 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn X, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Không; Đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Trần Văn TH và bà Đỗ Thị N; có vợ là Văn Thị H và 02 con; quá trình hoạt động: Không; tiền sự: không; tiền án: 01, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 129/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương ngày 02/12/2020, chấp hành xong án phí tháng 05/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/9/2021 đến nay, đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 24/8/2021, Trần Văn T đang ở nhà thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 88F1- 441.52 đến nhà Nguyễn Văn C sinh năm 1982, trú tại thôn 4, xã Trung Hà, huyện Yên Lạc rủ góp tiền mua ma túy sử dụng. C đồng ý và góp 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), T góp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), tổng cộng được 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). T cầm tiền rồi chở C đến khu vực vườn hoa thuộc phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên. Đến nơi, T dừng xe và bảo C xuống đứng đợi. Còn T một mình điều khiển xe đi đến khu vực chợ Vĩnh Yên, đoạn đường gần đường tàu thuộc phường Đống Đa. Tại đây, T gặp được một người nam giới (T khai: không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể). Qua nói chuyện, T hỏi và mua được của người này 02 (hai) gói ma túy Heroine với giá 400.000đ. Sau khi mua được, T giấu tại túi phía trước bên phải của chiếc quần đang mặc và quay trở lại gặp C . Khi gặp C , T nói đã mua được ma túy rồi, đi tìm địa điểm để sử dụng. Sau đó cả hai vừa đi được một đoạn thì bị thì tổ công tác Công an phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên kiểm tra hành chính, phát hiện lập biên bản sự việc quả tang và thu giữ tại túi phía trước bên phải của chiếc quần T đang mặc 02 gói giấy nhỏ, bên trong có chứa chất cục, bột màu trắng (T và C đều khai nhận đó là 02 gói ma túy Heroine vừa mua được, với mục đích để sử dụng) vật chứng được niêm phong trong bì thư theo quy định, ký hiệu A1, ngoài ra còn tạm giữ của T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS: 88F1- 441.52.

Các đối tượng cùng vật chứng nêu trên được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên giải quyết theo thẩm quyền. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định trưng cầu giám định số 355 yêu cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định 01 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 đã thu giữ. Tại Kết luận giám định số 2100/KLGĐ ngày 28/8/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng là 0,0962g loại Heroine. Hoàn lại mẫu vật sau giám định gồm: mẫu A1 = 0,0428g mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Quá trình điều tra, Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS:

88F1- 441.52 đã làm rõ là tài sản hợp pháp của anh Trần Văn Q , sinh năm 1991, trú tại xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc là anh họ của T , mua được từ anh Đặng Văn V sinh năm 1989, trú tại: xã Hồng Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 24/8/2021, anh Q tin tưởng nên đã cho T mượn xe để đi xin việc mà không biết T dùng đi mua ma túy. Ngày 24/9/2021, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh Q , anh Q nhận được tài sản và không ý kiến gì.

Bản Cáo trạng số 02/CT-VKSNDVY ngày 14/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) (BLHS).

Tại phiên tòa, Trần Văn T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã trình bày tại giai đoạn điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát công bố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt Trần Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 09/9/2021; không đề nghị phạt bổ sung; về xử lý vật chứng áp dụng khoản 1 Điều 47 của BLHS; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy 0,0428g gam mẫu cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận bổ sung, trong lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm về hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Trần Văn Q : Trong hồ sơ vụ án đã có đủ lời khai đảm bảo cho việc xét xử nên căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với Biên sự việc phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án cũng như Kết luận giám định của cơ quan chuyên môn. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 08 giờ 40 phút ngày 24/8/2021, trên đường Hùng Vương, đoạn qua tổ dân phố Vĩnh Thịnh 1, phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên, Trần Văn T và Nguyễn Văn C bị Tổ công tác Công an phường Tích Sơn kiểm tra, phát hiện lập biên bản quả tang và thu giữ tại túi quần phía trước bên phải đang mặc của T 01 gói giấy nhỏ có chứa 0,0962g chất bột, cục màu trắng, qua giám định là ma túy loại Heroine.

Hành vi tàng trữ 0,0962g ma túy loại Heroine trong khi đang có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa tán tích của Trần Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) …đã bị kết án về … một trong các tội quy định tại các điều…251…của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm…”.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội đã làm ảnh hưởng xấu đến nòi giống, sức khỏe của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo Trần Văn T là đối tượng nghiện ma túy có nhân thân xấu, từng bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo không lấy làm bài học, tự tu dưỡng rèn luyện bản thân thành công dân tốt mà còn tiếp tục phạm tội thể hiện bị cáo là người coi thường luật pháp. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6] Về hình phạt chính, Hội đồng xét xử căn cứ tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng mức hình phạt tù tại trại giam như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm vấn công khai tại phiên tòa, xác định được bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản và thu nhập ổn định đảm bảo cho thi hành án, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền như quy định khoản 5 Điều 249 BLHS.

[8] Về xử lý vật chứng vụ án:

Cơ quan điều tra đã làm rõ xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 88F1- 441.52 là tài sản hợp pháp của anh Trần Văn Q. Anh Q cho T mượn xe đi xin việc mà không biết T đã dùng để đi mua ma túy nên được cơ quan điều tra trả lại xe là có căn cứ. Anh Q không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

[9] Về các đối tượng có liên quan và nguồn gốc ma túy Đối với Nguyễn Văn C là đối tượng có dấu hiệu phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Nhưng nhân thân không có tiền án, tiền sự, khối lượng ma túy tàng trữ là 0,0962g không đủ định lượng để cấu thành tội phạm. Nên cơ quan công an không xử lý về hình sự mà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt 1.500.000 đồng đối là có căn cứ.

Đối với nam giới bán ma túy cho T ngày 24/8/2021 tại khu vực gần đường tàu thuộc phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Cơ quan điều tra cần tiếp tục xác minh, điều tra khi nào làm rõ xử lý theo quy định sau.

[10] Về án phí: Bị Trần Văn T bị kết án nên phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt Trần Văn T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam 09/9/2021.

Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,0428g mẫu cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định. Vật chứng có đặc điểm như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 06/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc Trần Văn T chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo, thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2022/HS-ST

Số hiệu:02/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;