TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 19/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Vàng A Đ, tên gọi khác: không. Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1974 tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Nơi đăng ký HKTT: Bản H, xã PC, huyện MS, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Giới tính: Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vàng Sáy S (đã chết) và bà Sồng Thị X; Bị cáo có vợ là Mùa Thị V, sinh năm: 1976 và có 06 con, lớn nhất sinh năm 1997 nhỏ nhất sinh năm 2021.
Tiền án: Không.
Tiền sự: 01 (Quyết định số: 89/2017/QĐ-TA ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng).
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2021 đến nay, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Bích L – Luật sư cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Địa chỉ: Ngõ 7a, tổ A, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người phiên dịch: Ông Giàng A L – Phó trưởng phòng Lao động thương binh và xã hội huyện Mai Sơn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 10/5/2021, Vàng A Đ đi bộ từ nhà đến khu vực sân bóng thuộc bản H, xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, Đ gặp và mua được của một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa Heroine với giá 150.000VNĐ và 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa Hồng phiến với g iá 1.000.000VNĐ. Đ mang số ma túy mua được về nhà lấy 03 viên Hồng phiến và một phần Heroine ra sử dụng, phần còn lại cất giấu trong phòng ngủ mục đích để sử dụng dần. Khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 11/5/2021, Đ tiếp tục lấy một phần Heroine và 01 nửa viên Hồng phiến ra sử dụng rồi cất giấu lại như cũ.
Đến 09 giờ 50 phút ngày 11/5/2021 tổ công tác Công an huyện Mai Sơn thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với người, chỗ ở, đồ vật của Mùa Thị Vang (là vợ của Vàng A Đ, đang bị điều tra trong một vụ án khác) tại bản H, xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn phát hiện Vàng A Đ có biểu hiện nghi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, Đ tự giác lấy từ phòng ngủ của gia đình ra giao nộp 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine, 01 mảnh viên nén màu hồng và 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 95 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY nghi là Hồng phiến. Vàng A Đ khai nhận là Heroine và Hồng phiến của Đ, mục đích tàng trữ để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng A Đ và thu giữ, niêm phong vật chứng nêu trên. Ngoài ra tạm giữ của Vàng A Đ: 01 điện thoại di động hiệu Itell kèm 01 sim điện thoại di động (tại túi quần bên phải Đ đang mặc).
Ngày 12/5/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn đã phối hợp với Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng thu giữ của Vàng A Đ, kết quả:
Khối lượng chất bột nén màu trắng là 0,2 gam, lấy toàn bộ ký hiệu M1; Khối lượng 01 mảnh viên nén màu hồng là 0,07 gam, l ấy toàn bộ ký hiệu M2; Khối lượng 95 viên nén màu hồng là 10,22 gam, lấy 0,54 gam (05 viên) ký hiệu M3 làm mẫu trưng cầu giám định.
Tại Kết luận giám định số 974/KLMT ngày 13 tháng 5 năm 2021 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:
“Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma túy; Loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,2 gam.
Mẫu gửi giám định ký hiệu M2 và M3 đ u là ma túy oại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định M2= 0,07 gam, M3= 0,54 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,2 gam oại Heroine và 10,2 gam Loại Methamphetamine”.
Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKSMS ngày 01/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Vàng A Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Vàng A Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo Vàng A Đ từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 9,68 gam methamphetamine, vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu hồng, túi linon màu xanh loại túi díp khóa gói ma túy ban đầu được niêm phong theo quy định;
Trả lại cho bị cáo Vàng A Đ 01 điện thoại di động hiệu Itel màu vàng đen kèm 01 sim điện thoại.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa nhất trí với quan điểm truy tố, luận tội của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu vùng xa có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật phần nào bị hạn chế, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Vàng A Đ nhận tội, nhất trí với lời bào chữa của Luật sư không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tình tiết định tội: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận do bản thân nghiện chất ma túy, ngày 11/5/2021 tại khu vực bản H, xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, bị cáo đã tàng trữ trái phép 0,2 gam Heroine và 10,29 gam Methamphetamine (tổng khối lượng ma túy thu giữ là 10,49 gam), mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Mai Sơn bắt quả tang, mục đích tàng trữ để sử dụng. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm quả tang lập hồi 10 giờ 00 phút ngày 11/5/2021 của Công an huyện Mai Sơn và kết luận giám định số 974/KLMT ngày 13 tháng 5 năm 2021 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Với các chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ để kết luận:
Hành vi của Vàng A Đ đã phạm vào Tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điểm n Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a)… …
n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này”
[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình tàng trữ trái phép chất ma túy trên người với mục đích để sử dụng cho bản thân là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cần lên án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải do đó được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
[5] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh bị cáo không có tài sản gì đáng giá, cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng:
Đối với 9,68 gam methamphetamine là chất độc dược Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 túi linon màu xanh loại túi có díp khóa gói ma túy ban đầu là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Itel màu vàng đen kèm 01 sim điện thoại là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.
[7] Về các vấn đề khác:
Về nguồn gốc Heroine và Methamphetamine bị thu giữ, Vàng A Đ khai mua của người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) tại khu vực bản H, xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, việc mua bán không ai biết, chứng kiến. Ngoài lời khai của Vàng A Đ, Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh mở rộng vụ án. Buộc bị can Vàng A Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng 0,2 gam Heroine và 10,29 gam Methamphetamine thu giữ trong vụ án.
Đối với Mùa Thị Vang, quá trình điều tra xác định Vang không biết Đ tàng trữ số ma túy trên và Vang cũng không nói cho Đ biết việc Vang tàng trữ ma túy để bán kiếm lời. Do đó, Vang không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối ma túy thu giữ của Vàng A Đ. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Vang đang được điều tra trong một vụ án khác.
Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã vùng ba, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên thuộc trường hợp được miễn án phí hình sự sơ thẩm tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Vàng A Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Vàng A Đ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 11/5/2021).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 9,68 gam methamphetamine, vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu hồng, túi linon màu xanh loại túi díp khóa gói ma túy ban đầu được niêm phong theo quy định;
- Trả lại cho bị cáo Vàng A Đ 01 điện thoại di động hiệu Itel màu vàng đen kèm 01 sim điện thoại.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo
4. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/10/2021)
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2021/HS-ST
Số hiệu: | 02/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về