Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 13/01/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXXST-HS ngày 05/02/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên bị cáo: Phạm Ngọc H; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 25 tháng 01 năm 1983 tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam; Nơi đăng ký HKTT: Thôn TL, xã M, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam; Chỗ ở hiện nay: Thôn TL, xã M, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 13/01/2019 bị Công an phường Điện Nam Đông, thị xã Điện Bàn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 2.000.000 đồng. Hiện chưa chấp hành xong.

Họ và tên cha: Phạm H (đã chết).

Họ và tên mẹ: Phạm Thị T, sinh năm: 1958, nghề nghiệp: Nông.

Gia đình có 04 (bốn) người con, bị cáo là con thứ 3 (ba). Nơi đăng kí HKTT: Thôn TL, xã M, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Bị cáo có vợ là Phan Thị N, sinh năm 1984, HKTT: Thôn 01, xã T, huyện N và đã ly hôn năm 2018; có con chung tên là Phạm Ngọc H, sinh năm 2009, hiện đang ở cùng mẹ.

Hiện bị cáo bị tạm giữ hình sự từ ngày 26/9/2019 đến ngày 04/10/2019 và chuyển “tạm giam” từ ngày 04/10/2019 cho đến nay. Có mặt tại tại phiên tòa - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Phạm Văn H - Sinh năm 1986; Trú tại: Thôn 2, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt không có lý do

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 25/9/2019, đối tượng Phạm Văn H (sinh ngày: 10/6/1986, HKTT: Thôn 01, xã T, huyện N, Quảng Nam) là đối tượng nghiện ma túy gọi điện cho Phạm Ngọc H hỏi chiều có đi lấy đồ không (đồ được hiểu là Heroin) Phạm Ngọc H trả lời là có. Đến khoảng 16 giờ chiều cùng ngày cả hai gặp nhau tại khu dân cư trước trường THPT N để đi mua Heroin. Phạm Văn H điều khiển xe Jupiter, biển kiểm soát 92G1- X chở Phạm Ngọc H đi xuống huyện Tiên Phước. Khi đến quán tạp hóa Hạnh Bình tại Tắc Nầm, Thôn 1,T, N thì Phạm Văn H vào mua 01 gói thuốc lá Prince rồi đưa cho Phạm Ngọc H số tiền 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) để góp mua Heroin về sử dụng (BL: 139  148).

Khi đến gần ngã ba cụ Huỳnh (xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước) Phạm Ngọc H dừng xe điện thoại gọi cho một thanh niên tên Long hỏi “có đồ (Heroin) không”, Long trả lời “có”. Phạm Ngọc H nói “có hai triệu rưỡi đây, để chừng nào đó thì để”, Long nói “chạy lên đầu dốc dài rồi gọi cho em”. Sau đó, Phạm Ngọc H tiếp tục điều khiển xe mô tô đi đến một tiệm thuốc Tây bên đường thì Phạm Văn H vào mua xi lanh và nước cất rồi cả hai đi đến ngã ba cụ Huỳnh, rẽ vào bên phải theo hướng đi xã Tiên Lộc, Tiên Phước (BL:139 148).

Khi đến đoạn dốc dài, lúc này 18 giờ, Phạm Ngọc H gọi điện cho Long, khoảng 05 phút sau Long điều khiển xe mô tô đến và dừng cách chổ Hải đứng khoảng 20 mét. Lúc này Phạm Văn H đứng tại chỗ xe còn Phạm Ngọc H đi bộ đến chổ Long. Tại đây Hải đưa cho Long số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng) rồi lấy Heroin. Sau đó Phạm Ngọc H chở Phạm Văn H ra hướng ngã ba cụ Huỳnh. Đi được khoảng 200 mét thì cả hai dừng xe và đi bộ vào ngôi nhà bỏ hoang, cách đường khoảng 20 mét để sử dụng Heroin bằng cách hòa vào nước cất rồi dùng xi lanh tiêm trực tiếp vào cơ thể. Sau khi sử dụng xong thì Phạm Ngọc H mở điện thoại và xóa số điện thoại của Long trong danh bạ và trong nhật ký cuộc gọi, cùng Phạm Văn H trở về N (BL: 139 148).

Khi đi qua khỏi khu vực Nước Xa thuộc thôn 4, T, N một đoạn thì cả hai vào ngôi nhà bỏ hoang bên đường chia Heroin còn lại. Phạm Ngọc H là người chia Heroin tương ứng với số tiền 500.000 đồng (năm trăm ngà đồng) mà Phạm Văn H đã góp, gói vào mảnh giấy bạc (loại giấy có trong gói thuốc lá), còn Phạm Văn H lấy điện thoại di động bật đèn flash để soi. Phạm Ngọc H lấy phần Heroin còn lại chia làm ba phần khác nhau, một phần cho vào trong mảnh giấy kẻ ô ly gói lại bỏ trong gói thuốc lá Prince để ở túi áo trong bên trái của áo khoát mình đang mặc, một phần cho vào một mảnh giấy kẻ ô ly và một phần cho vào mảnh giấy bạc gói lại rồi bỏ 02 gói này vào túi nhỏ phía trước, trên bên phải quần jean đang mặc. (BL: 139148).

Sau khi chia xong, Phạm Ngọc H điều khiển xe mô tô chở Phạm Văn H lên hướng trung tâm N. Khi đến đoạn đường ở Tắc Nầm, thôn 1, T, N thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N bắt quả tang và khám xét khẩn cấp thu giữ 03 (ba) gói chất rắn dạng bột, màu trắng trên người Phạm Ngọc H. Không thu giữ được ma túy trên người Phạm Văn H và theo lời khai Phạm Văn H thì sau khi chia xong phần Heroin, Hải lấy và bỏ vào túi áo khoát của mình nhưng đã làm rơi trên đoạn đường đi về (BL:139148; 159160).

Ngày 26/9/2019, Cơ Quan CSĐT Công an huyện N đã Quyết định trưng cầu giám định số 12/QĐTC-CSĐT yêu cầu giám định 03 (ba) gói chất bọt màu trắng. Tại Bản kết luận giám định số 155/PC09 ngày 02/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: Chất rắn dạng cục, bột màu trắng ở ba mẫu (mẫu ký hiệu A1, A2, A3) gửi giám định là ma túy, loại Heroin. Mẫu A1 gửi giám định có khối lượng 0,036 gam (không phẩy không ba sáu gam); mẫu A2 gửi giám định có khối lượng là 0,067 gam (không phẩy không sáu bảy gam); mẫu A3 gửi giám định có khối lượng là 0,702 gam (không phẩy bảy không hai gam). Tổng khối lượng Heroin là 0,805 gam (không phẩy tám không năm gam) (BL: 3235).

Qúa trình bắt quả tang và khám xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thu giữ:

- 0,805 g (không phẩy tám không năm gam) ma túy Heroin, đã phục vụ giám định hết 0,42g, còn lại 0,385g (BL:31).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu BUK, màu đen đỏ, model: BUK B110; số Imel 1: 980028003167363, số Imel 2: 980028003217861, made by FPT, bên trong có gắn 02 (hai) sim số: 0377.X.106 và 0961.X.054, đã qua sử dụng. Đây là điện thoại Hải đã sử dụng liên lạc trong quá trình mua Heroin. (BL:41) - 01 (một) xe mô tô, màu sơn đen, biển kiểm soát 92 G1-X, số khung PB30DY028124, số máy 1PB3028132, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe JUPITER, xe đã qua sử dụng (BL:69).

Qúa trình điều tra, chứng minh xe mô tô biển kiểm soát 92G1-X thuộc quyền sở hữu của bà Phạm Thị Mỹ Nhung (sinh năm 1992, trú tại thôn 3, xã Linh, N, Quảng Nam). Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu vì bà Nhung hoàn toàn không biết Phạm Văn H trong quán trình mượn xe mô tô của mình đã sử dụng làm phương tiện để mua ma túy sử dụng cá nhân (BL:78) Đối với các vật chứng còn lại (Heroin, điện thoại) đã được niêm phong và nhập kho vật chứng Công an huyện N (BL:38,67) Bản Cáo trạng số: 03/CT-VKS ngày 13 tháng 01 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Phạm Ngọc H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS đề nghị HĐXX tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về mức hình phạt: Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng Điều 38; Điểm s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51; Điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điểm a, b Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điểm a, b Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận, đồng ý với nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo đồng ý với tội danh mà Kiểm sát viên đã luận tội đối với bị cáo. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Vì bản thân là người nghiện, bị cáo đã cùng với Phạm Văn H đi Tiên Phước mua ma túy để sử dụng và bị Cơ quan CSĐT Công an huyện N bắt quả tang. Bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 03 (ba) gói ma túy loại heroin trên người để sử dụng, tổng khói lượng Heroin là 0,805gam (không phẩy tám không năm gam). Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai những người liên quan trong vụ án, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại các Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm để phục vụ cho nhu cầu sử dụng ma túy của mình. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm, đã xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản do Công an phường Điện Nam Đông, thị xã Điện Bàn xử phạt bằng hình thức phạt tiền, đến nay H vẫn chưa chấp hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên. Do vậy, cần phải xử một mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cần tiếp tục cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

Tuy nhiên, xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng, trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải (Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự). Do vậy khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật hình sự, thể hiện sự khoan hồng trong chính sách pháp luật hình sự nước ta.

Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung (hình phạt tiền - theo quy định tại Khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự). Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, thu nhập không ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án:

- 0,805g (không phẩy tám không năm gam) Heroin (ma túy) đã phục vụ giám định hết 0,42g, còn lại 0,385g. Thấy là chất gây nghiện, nguy hiểm (chỉ được sử dụng trong y tế). Nên cần tịch thu tiêu hủy - 01 (một) điện thoại di động hiệu BUK, màu đen đỏ, model: BUK B110; số Imel 1: 980028003167363, số Imel 2: 980028003217861, made by FPT, bên trong có gắn 02 (hai) sim số: 0377.X.106 và 0961.X.054, đã qua sử dụng. Xét thấy đây là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô, màu sơn đen, biển kiểm soát 92 G1-X, số khung PB30DY028124, số máy 1PB3028132, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe JUPITER. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu bà Phạm Thị Mỹ Nhung (sinh năm 1992, trú tại thôn 3, xã Linh, N, Quảng Nam) là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]Đối với đối tượng Phạm Văn H: Là người nghiện ma túy, H đã góp số tiền 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) và cùng với Phạm Ngọc H đi Tiên Phước mua ma túy vào ngày 25/9/2019. Tuy nhiên, số Heroin được chia, trong quá trình di chuyển H đã đánh rơi, quá trình kiểm tra, bắt giữ không thu được trên người H. Nên không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm Hình sự đối với Phạm Văn H về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”. Vì vậy Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Văn H về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” với hình thức “Cảnh cáo”. Là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]Đối với đối tượng tên Long đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Ngọc H: Theo lời khai của H thì H đã 03 (ba) lần mua ma túy của Long với số tiền là 3.200.000đồng (ba triệu hai trăm ngàn đồng). Tuy nhiên, sau khi giao dịch xong H đã xóa số điện thoại của Long trong danh bạ và nhật ký cuộc gọi, cho nên Hải không nhớ số điện thoại của Long. Cả ba lần giao dịch H gặp Long mua Heroin đều vào ban đêm, Long đều đeo khẩu trang nên không nhìn rõ mặt, H khai đối tượng Long khoảng gần 30 tuổi, cao khoảng 1m75, dáng người mập, không biết địa chỉ của Long nên Cơ quan điều tra không đủ thông tin và không thể tiến hành xác minh, truy tìm đối tượng tên Long. Là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên Tòa:

Về tội danh, Điều luật áp dụng, mức hình phạt. Xét thấy phù hợp với quy định của pháp luật nên cần xem xét chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật;

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H 30 (ba mươi) tháng tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để tạm giữ, ngày 26/9/2019.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điểm a, b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điểm a, b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 0,385g (không phẩy bốn ba lăm gam) Heroin (ma túy).

- 01 phong bì giấy màu trắng (dạng phong bì dùng để gửi công văn của Công an huyện N chứa những mảnh giấy và nilong trong suốt dùng để gói 03 chất bột màu trắng nghi là ma túy trong lúc bắt quả tang.

+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu BUK, màu đen đỏ, model: BUK B110; số Imel 1: 980028003167363, số Imel 2: 980028003217861, made by FPT, bên trong có gắn 02 (hai) sim số: 0377.X.106 và 0961.X.054, đã qua sử dụng.

Về án phí: Bị cáo Phạm Ngọc H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2020/HS-ST

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trà My - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;