Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (ma túy đá) số 17/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Song Q, sinh năm 1994; nơi sinh, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi sinh sống: Thôn V, xã T, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân T1: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Song G và bà Ngô Thị Kh; có vợ nhưng đã ly hôn, có một con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 15/10/2020 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Lê Thị D, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1958; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 24/9/2020, Trần Song Q điều khiển xe máy đến khu vực công nghĩa trang liệt sỹ xã L, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương đón người bạn mới quen tên là T1 (không rõ địa chỉ cụ thể) về nhà Q ở thôn V, xã T, huyện Kim Thành chơi. Khi về đến nhà, Q và T1 đi vào phòng ngủ của Q. Tại đây, T1 nói với Q: có đồ ngon làm tý, Q hiểu là T1 rủ Q sử dụng ma túy đá. Lúc này, T1 lấy ra 02 túi nilon chứa ma túy đá để dưới nền nhà, Q lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá của Q gồm 01 chai nhựa gắn ống hút và 01 coóng thủy tinh ở trong tủ ra, Q và T1 cho ma túy ở 02 túi nilon nêu trên vào trong coóng thủy tinh rồi cùng nhau sử dụng. Trong lúc sử dụng ma túy, T1 cho Q 03 túi nilon chứa ma túy đá để Q sử dụng dần, Q cầm và cất giấu ở cạnh tường nơi đang ngồi (theo Q khai). Khoảng gần 04 giờ ngày 25/9/2020, Q ngủ dậy đi mua mỳ tôm để nấu ăn. Trên đường đi, Q gọi điện thoại chị Lê Thị D (là bạn Q mới quen), sinh năm 1987, địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, rủ D đến nhà Q chơi, D đồng ý (lúc này D dang ngủ ở nhà nghỉ G thuộc xã L, huyện Kim Thành). Q đón D về nhà Q cùng nấu mì tôm ăn, rồi Q và T1 tiếp tục sử dụng ma túy. Thấy vậy, D tham gia sử dụng ma túy cùng với Q và T1. Hồi 05 giờ cùng ngày, khi Q, T1 và D đang sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà Q thì bị lạc lượng công an huyện Kim Thành phối hợp với công an xã T kiểm tra. T1 mở cửa phía sau nhà Q bỏ trốn thoát. Lực lượng công an thu giữ dưới nền nhà trong phòng ngủ của Q 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy, gồm : 01 chai nhựa được gắn 01 ống hút và 01 coóng thủy tinh bên trong còn bám dính chất rắn màu vàng (niêm phong ký hiệu M1) ; 02 túi nilon bên trong có bám dính chất rắn dạng tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu M2). Sau khi được động viên, Q tự nguyện giao nộp cho lực lượng công an 03 túi nilon đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu M3), Q khai nhận chất rắn dạng tinh thể màu trăng trong 03 túi nilon, chất bám dính trong 02 túi nilon và trong coóng thủy tinh đều là ma túy đá Q cất giấu mục đích để sử dụng.

Tại bàn Kết luận giám định số 386/ KLGĐ-PC09 ngày 27/9/2020, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn màu vàng bám dính trong coóng thủy tinh niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, gửi đến giám định có khối lượng 0,049 gam, là ma túy loại Methamphetamine; Chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong hai túi nilon niêm phong trong phong bì ký hiệu M2, gửi đến giám định khối lượng 0,017 gam, là ma túy loại Methaphetamine; Chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 03 túi nilon niêm phong trong phong bì ký hiệu M3, gửi đến giám định có tông khối lượng 0,436 gam, là ma túy loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 01 coóng thủy tinh và 0,365 gam Methamphetamine trong phong bì niêm phong số 386/KLGĐ-PC09.

Kết quả kiểm tra mẫu nước tiểu của Trần Song Q và Lê Thị D ngày 25/9/2020 đều dương tính với chất ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Trần Song Q khai nhận hành vi như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 10/CT-VKS ngày 03/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Trần Song Q về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Trần Song Q phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Song Q từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Trần Song Q chấp hành hình phạt chung từ 09 năm đến 09 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 15/10/2020. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu hủy 0,365 gam Methamphetamine và 01 coóng thủy tinh được niêm phong trong 01 phong bì số: 386/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương; 01 chai nhựa gắn ống hút. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Trần Song Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Song Q khai nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Trần Song Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng hơn 04 giờ ngày 25/9/2020, Trần Song Q đã dùng chỗ ở của mình tại thôn V, xã T, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương cho Lê Thị D và người thanh niên tên T1 sử dụng trái phép chất ma túy. Đến hồi 05 giờ cùng ngày, thì bị lực lượng công an huyện Kim Thành phối hợp với công an xã T phát hiện, thu giữ 02 túi nilon bên trong chứa 0,017 gam ma túy loại Methaphetamine; 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy, gồm: 01 chai nhựa, 01 ống hút nhựa, 01 coóng thủy tinh bên trong chứa 0,049 gam ma túy loại Methamphetamine và thu giữ 03 túi nilon bên trong chứa 0,436 gam ma túy loại Methamphetamine bị cáo cất giấu mục đích để sử dụng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Song Q phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quy định của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, còn là nguyên nhân làm lan truyền tệ nạn ma tuý và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi cố ý đã gây ra và phải chịu một hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

[4] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải xử phạt nghiêm và áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Bị cáo Trần Song Q phạm nhiều tội, nên Toà án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho các tội theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện kinh tế của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các biện pháp tư pháp: Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine và gửi đi giám định. Sau khi giám định, cơ quan giám định hoàn lại 01 phong bì số: 386/KLGĐ- PC09, bên trong có một coóng thủy tinh và 0,365 gam Methamphetamine nên tịch thu cho tiêu hủy. Đối với 01 chai nhựa gắn ống hút, không có giá trị nên tịch thu cho tiêu hủy.

[7] Theo bị cáo Q khai, khoảng 22 giờ ngày 24/9/2020, Q còn có hành vi cho người thanh niên tên T1 sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà Q. Ngoài lời khai duy nhất của Q, chưa đủ căn cứ chứng minh. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[8] Về nguồn gốc số ma túy, Q khai do một người thanh niên không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cho Q và cùng sử dụng ma túy với Q. Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để xác minh nên Tòa án không xét.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết luận phạm tội, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 256, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Song Q phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Trần Song Q 07 năm 06 tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Trần Song Q chấp hành hình phạt chung là 09 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 15/10/2020.

3. Về các biện pháp tư pháp: Tịch thu cho tiêu hủy 0,365 gam Methamphetamine và 01 coóng thủy tinh được niêm phong trong 01 phong bì số: 386/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương; 01 chai nhựa gắn ống hút (Vật chứng được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Song Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (ma túy đá) số 17/2021/HS-ST

Số hiệu:17/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;