TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 184/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 173/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Cao Văn H, sinh ngày 24-4-1995 tại Đắk Lắk; số CCCD: 066095002676; nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố 3, thị trấn IK, huyện IG, tỉnh Gia Lai; chỗ ở trước khi bị bắt: 145/5 đường W, tổ 3, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn N và bà Đỗ Thị H1; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt tạm giữ ngày 11-7- 2023 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Đinh Gia Nữ Phương H2, sinh năm 1997; địa chỉ: 02 đường N, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
Người chứng kiến: Ông Trần Minh Đ, sinh năm 1970; địa chỉ: 179 đường W, tổ 3, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau:
Cao Văn H sử dụng chất ma túy từ khoảng thời gian đầu năm 2022. Thông qua các mối quan hệ xã hội, Cao Văn H có số điện thoại của người nam thanh niên tên N (không rõ họ tên, nhân thân, lai lịch) là người bán ma tuý. Vào khoảng 19 giờ ngày 10-7-2023, Cao Văn H nảy sinh ý định mua ma tuý để sử dụng nên gọi điện thoại cho N hỏi mua 1 gói ma tuý (loại Ketamine) với giá 3.000.000 đồng; N đồng ý và hẹn gặp Cao Văn H tại đầu hẻm 145 đường W, tổ 3, phường I, thành phố P. Sau đó, Cao Văn H đi bộ đến điểm hẹn và đã mua 1 gói ma tuý (loại Ketamine) với giá 3.000.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, Cao Văn H mang về phòng trọ tại số 145/5 đường W, tổ 3, phường I, thành phố P và cất giấu trong phòng ngủ, với mục đích để sử dụng. Đến 06 giờ 10 phút ngày 11-7-2023, khi Cao Văn H đang ở nhà trọ thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố P kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ vật chứng, gồm: 1 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể (đã được niêm phong theo quy định); 1 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen (màn hình có vết nứt vỡ) cùng thẻ sim (mặt sau có dãy số 8984 04800 00284 20508).
2. Các vấn đề khác:
Tại Kết luận giám định số 623/KL-KTHS ngày 19-7-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:
“Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 1,2994 gam”.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.
3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:
Cáo trạng số: 194/CT-VKS ngày 26-10-2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Cao Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
4. Diễn biến tại phiên toà:
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Cao Văn H và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về hình sự:
Tuyên bố bị cáo Cao Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Cao Văn H với mức án từ 1 năm 3 tháng đến 1 năm 6 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ các khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu và tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định trong 1 bì công văn dán kín ghi số 623/PC09 ngày 19-7-2023 có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai (Có các chữ ký, họ và tên của Nguyễn Thế M, Bùi Sĩ T và Phạm Thế D).
Tịch thu và tiêu huỷ 1 thẻ sim số (Mặt sau có dãy số 8984 04800 00284 20508) của bị cáo Cao Văn H.
Tịch thu, sung quỹ nhà nước 1 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen (Điện thoại cũ, đã qua sử dụng, màn hình vỡ nát; Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai không kiểm tra tình trạng bên trong) của bị cáo Cao Văn H.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:
Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và bị cáo rất ăn năn hối hận về việc làm của mình; kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:
Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Cao Văn H phạm tội như sau:
Cao Văn H sử dụng chất ma túy từ khoảng thời gian đầu năm 2022. Vào khoảng 19 giờ ngày 10-7-2023, tại đầu hẻm 145 đường W, tổ 3, phường I, thành phố P, Cao Văn H đã mua của đối tượng tên Nhóc (không rõ họ tên, nhân thân, lai lịch) 1 gói ma túy (loại Ketamine) với giá 3.000.000 đồng. Mua được ma túy, Cao Văn H mang về cất giấu tại phòng trọ tại số 145/5 đường W, tổ 3, phường I, thành phố P, với mục đích để sử dụng. Đến 06 giờ 10 phút ngày 11-7-2023, khi Cao Văn H đang ở tại phòng trọ thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố P kiểm tra, bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng, gồm: 1 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể và 1 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone mà bị cáo đã dùng liên lạc để mua ma tuý.
Hành vi tàng trữ 1,2994 gam chất ma túy loại Ketamine với mục đích để sử dụng do bị cáo Cao Văn H thực hiện đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được tác hại của các chất ma tuý đối với sức khoẻ con người, việc sử dụng các chất ma tuý là nguyên nhân gián tiếp làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, bị cáo cũng biết rõ pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai quyết định truy tố ra trước Tòa án để xét xử đối với bị cáo Cao Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình với một hình phạt tương xứng.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ thái độ ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [4] Về hình phạt bổ sung:
Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án:
Tịch thu và tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định trong 1 bì công văn dán kín ghi số 623/PC09 ngày 19-7-2023 có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai (Có các chữ ký, họ và tên của Nguyễn Thế M, Bùi Sĩ T và Phạm Thế D).
Thẻ sim số của bị cáo Cao Văn H không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu huỷ.
Bị cáo Cao Văn H đã sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen vào việc liên lạc để mua chất ma túy; vì vậy cần tịch thu, sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại này của bị cáo Cao Văn H.
[6] Về các vấn đề khác:
Đối tượng tên N là người mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo. Do bị cáo không biết được nhân thân, lai lịch của đối tượng N; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã tiến hành mở danh bạ điện thoại, nhật ký cuộc gọi, tin nhắn trong chiếc điện thoại đã thu giữ của Cao Văn H nhưng không xác định được số điện thoại của N và không xác định được nội dung tin nhắn liên quan đến việc mua bán chất ma túy; đồng thời, đã xác minh tại địa bàn phường I, thành phố P nhưng không xác định được đối tượng tên N nên chưa có căn cứ để điều tra, làm rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P tiếp tục xác minh và xử lý sau.
Cao Văn H cất giấu ma tuý trong nhà trọ của chị Đinh Gia Nữ Phương H2;
chị Đinh Gia Nữ Phương H2 không biết nên không có căn cứ để xử lý.
[7] Về án phí:
Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Cao Văn H.
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Cao Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Cao Văn H 1 (một) năm 3 (ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 11-7-2023.
3. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ các khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu và tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định trong 1 bì công văn dán kín ghi số 623/PC09 ngày 19-7-2023 có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai (Có các chữ ký, họ và tên của Nguyễn Thế M, Bùi Sĩ T và Phạm Thế D).
Tịch thu và tiêu huỷ 1 thẻ sim số (Mặt sau có dãy số 8984 04800 00284 20508) của bị cáo Cao Văn H.
Tịch thu, sung quỹ nhà nước 1 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen (Điện thoại cũ, đã qua sử dụng, màn hình vỡ nát; Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai không kiểm tra tình trạng bên trong) của bị cáo Cao Văn H.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02-11-2023 giữa Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P).
4. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Cao Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Bị cáo và chị Đinh Gia Nữ Phương H2 có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày 22-11-2023.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 184/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (loại Ketamine)
Số hiệu: | 184/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về