Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại Heroine) số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH L

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23/8/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2022/HSST ngày 01 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Giàng A C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1966 tại tỉnh L. Trú tại; bản T, xã T, huyện Tam Đ, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá(học vấn): Không; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Giàng A K (đã chết); Con bà: Hảng Thị P (đã chết); Có vợ là: Hảng Thị M, sinh năm 1966 và có 3 con, con lớn nhất sinh năm 1990, con nhỏ nhất sinh năm 1995; Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ tư; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Bản án số 187/2004 ngày 14/9/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện B đã xử phạt Giàng A C 10 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 21/01/2012 bị cáo chấp hành xong hình phạt và các quyết định khác của bản án, đến nay đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/4/2022 đến ngày 25/4/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã T, huyện Tam Đ, tỉnh L cho đến nay. (Có mặt ).

Người bào chữa cho bị cáo Giàng A C: Ông Nguyễn Xuân Oánh – Luật sư thuộc Trung tâm tư vấn pháp luật và bảo trợ tư pháp cho người nghèo tỉnh L. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 22/4/2022, Tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý - Công an tỉnh L nhận được tại khu vực Bản Chin Chu Ch, xã San Th, thành phố L, tỉnh L thì phát hiện Giàng A C có biểu hiện nghi vấn, qua kiểm tra phát hiện ở ống quần bên phải xắn lên của Giàng A C đang mặc có một gói được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng bên trong là chất bột màu trắng; Ở ống tay áo bên trái xắn lên của Giàng A C đang mặc có một gói được gói bên ngoài bằng một mảnh nilon màu trắng bên trong là chất bột màu trắng. Theo C khai nhận 2 gói đó đều là Heroine tàng trữ để sử dụng.

Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng để điều tra, làm rõ.

Tại cơ quan điều tra, Giàng A C khai nhận: Nguồn gốc 2 gói ma túy bị thu giữ là vào khoảng 09 giờ, ngày 22/4/2022, Giàng A C đi bộ một mình đến nhà Vàng Thị Khuyên ở bản Chin Chu Ch, xã San Th, thành phố L, tỉnh L mua được của Khuyên mua được một gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được gói Heroine Giàng A C cầm đi ra ngoài đường mở ra xem sau đó cấu một ít ra rồi nhặt một mảnh giấy bạc màu vàng dưới đất lên gói lại cất vào ống quần bên phải xắn lên, số còn lại Giàng A C gói lại bằng nilon màu trắng rồi cho vào ống tay áo bên trái xắn lên và đi bộ lên khu vực đồi chè thuộc bản Chin Chu Ch, xã San Th, thành phố L tìm chỗ sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang.

Các vấn đề khác của vụ án:

Kết luận giám định số: 345/GĐ – KTHS ngày 22/4/2022 của người giám định tư pháp theo vụ việc kết luận: 02 (hai) Gói chất bột màu trắng gửi đến giám định có tổng khối lượng là 0,36 gam.

Kết luận giám định số: 346/GĐ-KTHS ngày 25/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: 02 (hai) Mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu: M1 và M2) gửi giám định là chất ma tuý, loại: Heroine (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Cáo trạng số: 40/CT-VKSTP ngày 30/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố Giàng A C về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng A C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Giàng A C từ 14 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam trước đó. Áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ một phong bì niêm phong làm bằng phong bì công văn do Công an tỉnh L phát hành (Theo hồ sơ bên trong là: Vỏ bao bì, giấy gói sau khi mở niêm phong); Trả lại cho bị cáo Giàng A C: Một chứng minh nhân dân mang tên Giàng A C. Về án phí hình sự sơ thẩm đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các quyết định nêu trên.

Tại phiên tòa, người bào chữa có ý kiến như sau: Về tội danh, điều khoản áp dụng đồng quan điểm với đại diện Viện kiểm sát. Quá trình giải quyết vụ án bị cáo Giàng A C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình để cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án. Hơn nữa bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, không được đi học, nhận thức pháp luật có phần hạn chế, nguyên nhân phạm tội một phần cũng do bị rủ rê, lôi kéo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về hình phạt bổ sung và án phí: Gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật để được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh L, Công an thành phố L, các Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, kết luận giám định … được xem xét và tranh tụng công khai tại phiên toà. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 22/4/2022, tại khu vực đồi chè thuộc bản Chin Chu Ch, xã San Th, thành phố L, tỉnh L, Giàng A C đang tàng trữ 0,36 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh L phát hiện, bắt quả tang.

Bị cáo Giàng A C là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Giàng A C có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bản án số 187/2004 ngày 14/9/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã xử phạt Giàng A C 10 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 21/01/2012 bị cáo chấp hành xong hình phạt và các quyết định khác của bản án, đến nay đã được xóa án tích.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Hơn nữa, bị cáo là dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu vùng xa, không được đi học, nhận thức về pháp luật có phần hạn chế do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội cai nghiện, răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,36 gam Heroine Cơ quan điều tra đã trích đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

Đối với vỏ bao bì, giấy gói sau khi mở niêm phong là công cụ phạm tội và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với một chứng minh nhân dân mang tên Giàng A C không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, theo lời khai của Giàng A C, nguồn gốc 0,36 gam Heroine mà bị cáo bị thu giữ là do mua của Vàng Thị Khuyên ở bản Chin Chu Ch, xã San Th, thành phố L, tỉnh L. Quá trình điều tra, Vàng Thị Khuyên không thừa nhận, ngoài lời khai của Giàng A C không có tài liệu, chứng cứ khác. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, giải quyết trong vụ án này.

[6] Quan điểm của kiểm sát viên, người bào chữa tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106; các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Giàng A C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Giàng A C 14 (mười bốn) tháng tù, được trừ thời hạn bị tạm giữ là 03 (ba) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành tiếp là 13 (mười ba) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Về vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy một phong bì niêm phong làm bằng phong bì công văn do Công an tỉnh L phát hành (Theo hồ sơ bên trong là: Vỏ bao bì, giấy gói sau khi mở niêm phong).

Trả lại cho bị cáo Giàng A C: Một chứng minh nhân dân mang tên Giàng A C (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2022 giữa Công an thành phố L và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng A C.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (loại Heroine) số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;